
Thuật ngữ pháp lý
Đang xem kết quả 121 đến 150 trong tổng số 191 thuật ngữ
LUẬT KHOÁNG SẢN NĂM 1996
Đạo luật quy định các vấn đề về quản lý, bảo vệ, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên, khoáng sản và hoạt động khoáng sản, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20.3.1996, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.9.1996.
Luật khoáng sản là cơ sở pháp lý để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ, sử dụng hiệu quả mọi tài nguyên khoáng sản của đất nước; khuyến khích phát triển công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, bảo vệ môi trường, môi sinh và an toàn lao động trong hoạt động khoáng sản, nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng của Luật khoáng sản là quản lý, bảo vệ, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên, khoáng sản, bao gồm: khảo sát, thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản ở thể rắn, thể khí, nước khoáng và nước nóng thiên nhiên (riêng dầu khí và các loại nước thiên nhiên khác được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật khác).
Luật khoáng sản gồm lời nói đầu, 10 chương với 66 Điều, mỗi chương đều có tên gọi phản ánh những nội dung riêng. Chương I - Những quy định chung (gồm 8 điều): quy định về sở hữu tài nguyên khoáng sản; quy định về đối tượng và phạm vi áp dụng, các vấn đề về quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên, khoáng sản; khuyến khích đầu tư hoạt động khoáng sản, phát triển công nghiệp và chế biến khoáng sản; quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được hoạt động khoáng sản và quyền của nhân dân địa phương nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến và quy định nghiêm cấm vi phạm pháp luật về khoáng sản. Chương II - Bảo vệ tài nguyên khoáng sản; điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản (gồm 4 điều): quy định về bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác; bảo vệ tài nguyên khoáng sản trong hoạt động thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản; điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản và quy định các mẫu vật, số liệu, thông tin về tài nguyên khoáng sản. Chương III - Khu vực hoạt động khoáng sản, bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản (gồm 8 điều): quy định các vấn đề về khu vực hoạt động khoáng sản; khu vực cấm hoặc tạm thời cấm hoạt động khoáng sản; khu vực có khoáng sản độc hại; bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản; sử dụng đất trong hoạt động khoáng sản; sử dụng nước, sử dụng cơ sở hạ tầng trong hoạt động khoáng sản và bảo hiểm trong hoạt động khoáng sản. Chương IV - Khảo sát khoáng sản (gồm 4 Điều): quy định các vấn đề về giấy phép khảo sát khoáng sản; quyền của tổ chức, cá nhân được phép khảo sát khoáng sản; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được phép khảo sát khoáng sản và việc thu hồi giấy phép khảo sát khoáng sản. Chương V - Thăm dò khoáng sản (gồm 6 điều): quy định các vấn đề về giấy phép thăm dò khoáng sản; quyền của tổ chức, cá nhân được phép thăm dò khoáng sản; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được phép thăm dò khoáng sản; đề án thăm dò khoáng sản; thu hồi giấy phép thăm dò khoáng sản và chấm dứt hiệu lực giấy phép thăm dò khoáng sản. Chương VI - Khai thác, chế biến khoáng sản, 23 điều (3 mục): quy định về khai thác khoáng sản; về chế biến khoáng sản; về khai thác tận thu. ChươngVII - Quản lý nhà nước về khoáng sản: quy định các vấn đề về nội dung quản lý nhà nước về khoáng sản; nhiệm vụ của thanh tra chuyên ngành về khoáng sản; thẩm quyền, thủ tục cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép hoạt động khoáng sản; giải quyết tranh chấp về hoạt động khoáng sản. Chương VIII - Thanh tra chuyên ngành về khoáng sản (gồm 5 Điều); quy định các vấn đề về thanh tra chuyên ngành về khoáng sản, thẩm quyền của thanh tra chuyên ngành về khoáng sản; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành về khoáng sản, quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện. Chương IX - Khen thưởng và xử lý vi phạm (2 điều): gồm các vấn đề về khen thưởng và xử lý vi phạm. Chương X - Điều khoản thi hành (2 Điều), quy định các vấn đề về điều khoản thi hành và hiệu lực thi hành.
Luật khoáng sản năm 1996 là một đạo luật quan trọng của hệ thống pháp luật Việt Nam, liên quan chặt chẽ đến một số luật chuyên ngành như Luật đất đai, Luật bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ và phát triển rừng..., liên quan đến các điều ước quốc tế về khoáng sản mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Các quy định của Luật khoáng sản đã thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về khoáng sản, cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992 về chiến lược phát triển kinh tế trong lĩnh vực khoáng sản; tiếp tục giải phóng sức sản xuất và tài nguyên của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
LUẬT KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC NĂM 1998
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về khuyến khích đầu tư trong nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên lãnh thổ Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.
Luật khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20.5.1998, thay thế Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.1999.
Phạm vi điều chỉnh của Luật là các hoạt động đầu tư, thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế; xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, di chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi đô thị, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đa dạng hóa ngành nghề, sản phẩm; mua cổ phần các doanh nghiệp, góp vốn vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; đầu tư theo các hình thức Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, xây dựng - chuyển giao - kinh doanh hoặc xây dựng - chuyển giao.
Đối tượng áp dụng là các nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt Nam; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam muốn thực hiện việc đầu tư theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định những trường hợp cụ thể cho phép nhà đầu tư là người nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam với mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Luật khuyến khích đầu tư trong nước lần đầu được ban hành vào năm 1994 đã khuyến khích và thúc đẩy kịp thời các hoạt động đầu tư trong nước, phát huy nội lực trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ 4 (Khóa VIII) với tinh thần huy động mọi nguồn lực, đặc biệt, phát huy cao độ các nguồn lực trong nước, hiện đại hóa đất nước, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, khuyến khích mạnh mẽ tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
Năm 1998, Luật khuyến khích đầu tư mới được ban hành, thay thế Luật khuyến khích đầu tư trong nước ban hành năm 1994 nhằm tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy các hoạt động đầu tư của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998 gồm 7 chương với 44 điều. Chương I - Những quy định chung, gồm 5 điều, quy định nguyên tắc Nhà nước bảo hộ, khuyến khích, đối xử bình đẳng và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên lãnh thổ Việt Nam theo pháp luật Việt Nam; giải thích các thuật ngữ; quy định phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; các quy định về góp vốn... Chương II - Bảo đảm và hỗ trợ đầu tư, gồm 9 điều, quy định về việc Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư; Nhà nước thực hiện hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng cho các nhà đầu tư, khuyến khích các hoạt động hỗ trợ đầu tư. Chương III - Ưu đãi đầu tư, gồm 15 Điều, quy định về các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước Việt Nam đối với các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư khi thực hiện các dự án đầu tư trong nước được mở rộng phạm vi đầu tư, được giảm 50 - 75% tiền sử dụng đất tùy theo từng trường hợp và địa bàn đầu tư; được giảm thuế, được vay vốn và bảo lãnh vay vốn... Chương IV - Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, gồm 5 điều, trong đó xác định rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của nhà đầu tư. Chương V - Quản lý nhà nước về khuyến khích đầu tư trong nước, gồm 4 điều, xác định rõ thẩm quyền của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chính quyền địa phương (ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) về quản lý nhà nước; thanh tra, kiểm tra các hoạt động đầu tư, các dự án đầu tư trong nước. Chương VI - Khen thưởng và xử lý vi phạm, gồm 3 Điều và Chương VII - Điều khoản thi hành, gồm 3 điều. So với Luật được ban hành năm 1994, Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998 đã được mở rộng hơn về hình thức (tăng 20 Điều) và nội dung, thể hiện ở phạm vi điều chỉnh của Luật, hình thức đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu được khuyến khích, các hoạt động đầu tư được bổ sung thêm bao gồm: đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, di chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi đô thị, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đa dạng hóa ngành nghề, sản phẩm. Các bảo đảm và hỗ trợ đầu tư, các ưu đãi đầu tư cũng được Nhà nước tăng cường. Đặc biệt là về thủ tục hành chính đã được đơn giản hóa tới mức tối thiểu nhằm tạo điều kiện và khuyến khích các nhà đầu tư khi được hưởng ưu đãi đầu tư. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc đầu tư, cho hưởng ưu đãi đầu tư không đúng quy định, có hành vi sách nhiễu, gây phiền hà đối với nhà đầu tư đều bị xử lý theo pháp luật.
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, ngày 28.11.2005 Quốc hội thông qua Luật đầu tư năm 2005. Luật này quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Đối tượng áp dụng của Luật này là nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam và đầu tư Việt Nam ra nước ngoài; tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư.
Luật này gồm 10 chương với 89 điều, và có hiệu lực từ ngày 01.07.2006.
LUẬT KINH DOANH BẢOHlỂMNĂM 2000
Đạo luật quy định tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm, được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09.12.2000 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.4.2001.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, hầu hết các hoạt động kinh doanh bảo hiểm do các công ty bảo hiểm Pháp tiến hành.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tương tự các nước xã hội chủ nghĩa khác, ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm do Nhà nước thực hiện nên được gọi là bảo hiểm nhà nước. Văn bản pháp luật đầu tiên về kinh doanh bảo hiểm là Quyết định số 179/CP của Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 17.12.1964 quy định thành lập Công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) trực thuộc Bộ Tài chính, chuyên trách hoạt động bảo hiểm nhà nước. Trong điều kiện đất nước có chiến tranh và nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hoạt động của Bảo Việt vừa mang tính kinh doanh, vừa mang tính quản lý nhà nước. Các quy tắc bảo hiểm do Bảo Việt quy định trong một thời gian dài được áp dụng như quy phạm pháp luật.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế kinh doanh bảo hiểm. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, ngày 18.12.1993 Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định tương đối có hệ thống về hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo hướng phát triển thị trường bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 có mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; phát triển thị trường bảo hiểm; thúc đẩy và góp phần duy trì sự phát triển một cách bền vững của nền kinh tế - xã hội; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Phạm vi điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm là quan hệ tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm, quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm.
Luật gồm lời nói đầu, 9 chương, 189 điều, có những nội dung cơ bản sau đây: quy định nguyên tắc và phạm vi kinh doanh bảo hiểm; quy định hình thức tổ chức kinh doanh bảo hiểm, các loại sản phẩm bảo hiểm; quy định về Hợp đồng kinh doanh bảo hiểm; quy định quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 là đạo luật đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng pháp luật kinh doanh bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Khác với Luật kinh doanh bảo hiểm của nhiều nước, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam không áp dụng với các hoạt động bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm khác do Nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh. Tương tự ở nhiều nước, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam áp dụng chung cho cả hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Ở một số nước, về kỹ thuật lập pháp có sự phân biệt giữa đạo luật điều chỉnh quan hệ kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và đạo luật điều chỉnh quan hệ kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Ví dụ: Thái Lan có hai đạo luật về kinh doanh bảo hiểm: Đạo luật bảo hiểm nhân thọ năm (1992) (B.E 2535), Đạo luật bảo hiểm phi nhân thọ năm (1992) (B.E 2502).
LUẬT KINH TẾ
Tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất, kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
Luật kinh tế điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã hội chủ yếu, đó là: quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các doanh nghiệp, phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh và quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau, phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, luật kinh tế còn điều chỉnh các quan hệ kinh tế nội bộ, tức là điều chỉnh các quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của một doanh nghiệp, một chủ thể kinh doanh. Chủ thể của luật kinh tế chính là các chủ thể kinh doanh và các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
Luật kinh tế xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX ở các nước tư bản chủ nghĩa, khi một số nhà nước tư sản tăng cường sự can thiệp của mình vào lĩnh vực các quan hệ kinh tế. Sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, cùng với sự hình thành Nhà nước liên bang Cộng hòa xã hội Xô Viết và sau đó là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, tuy ở mức độ khác nhau, ở các nước này luật kinh tế được thừa nhận như là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của mỗi nước.
Ở Việt Nam, luật kinh tế ra đời và được thừa nhận như ngành luật độc lập trong hệ thống các ngành luật Việt Nam từ những năm 70 của thế kỷ XX và đó là bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật kinh tế. Đến nay, luật kinh tế vẫn còn tồn tại và phát triển về nội dung cũng như hình thức.
LUẬT LA MÃ
Hệ thống pháp luật La Mã cổ đại thuộc kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ La Mã.
Pháp luật La Mã cổ đại được nâng lên hàng “Lý trí thành văn”, được tiếp thu, vận dụng rộng rãi trong các nhà nước phong kiến Tây Âu và là một nguyên tắc cơ bản của nhiều chế định pháp luật, nhất là pháp luật dân sự tư sản.
Có một cách nói được truyền tụng rộng rãi là người La Mã đã ba lần chinh phục thế giới: lần thứ nhất bằng các đạo quân lê dương: lần thứ hai bằng Thiên Chúa giáo; và lần thứ ba bằng pháp luật.
Xét về bản chất, luật La Mã thể hiện ý chí của giai cấp chủ nô, phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị, là công cụ đàn áp nô lệ, chúng ra đời trong điều kiện cụ thể của xã hội La Mã cổ đại, khi quan hệ, giao lưu thương mại dựa trên chế độ sở hữu tư nhân rất phát triển ở dạng thuần túy, lại được một đội ngũ luật sư đông đảo và có trình độ nghiệp vụ cao biết sử dụng ngôn ngữ pháp lý để thể hiện các nhu cầu pháp lý của các quan hệ, giao lưu thương mại, hàng hóa một cách đúng đắn thành các quy định, chế định pháp lý chặt chẽ, có tính mẫu mực, mang ý nghĩa của một bộ phận tiêu biểu của nền văn minh La Mã.
Lần pháp điển hóa đầu tiên của luật La Mã được tiến hành vào những năm 50 của thế kỷ VI trước Công nguyên với tên gọi: Luật XII bảng - vì được khắc trên mười hai bảng gỗ và đặt ở quảng trường thành phố để mọi người đều có thể đọc để biết và không ai được nói rằng, mình là người không biết pháp luật. Có đòi hỏi đã trở thành nguyên tắc được lưu truyền đến ngày nay là mỗi công dân La Mã khi đến tuổi trưởng thành bắt buộc phải thuộc lòng Luật XII bảng, nếu không sẽ không được hưởng các quyền công dân, trong đó có quyền tham gia vào các hoạt động của Tòa án.
Nội dung của Luật XII bảng chủ yếu bao gồm các quy tắc tục lệ, tập quán pháp. Nguyên bản Luật XII bảng không còn lưu lại được đến ngày nay. Người ta biết đến Luật XII bảng là nhờ những trích dẫn của các nhà sử học, luật gia La Mã, nhất là của các luật gia như Xixêrông, Ulpian, Gay, đặc biệt là từ tác phẩm của Gay: sách giáo khoa về “các thiết chế” là sách được viết cho các trường dạy luật La Mã thời bấy giờ. Luật XII bảng phân biệt “công pháp” với tính cách là một tổng hợp bao gồm các quy phạm liên quan đến Nhà nước La Mã như một chỉnh thể và “tư pháp” là những quy định liên quan đến lợi ích của cá nhân. Luật XII cũng phân biệt, chia “vật" thành hai loại: loại thứ nhất gồm đất đai, nô lệ, gia súc - sức kéo; loại thứ hai gồm tất cả các vật khác còn lại. Ý nghĩa của việc phân biệt “vật” thành hai loại là ở chỗ, đối với loại thứ nhất việc chuyển nhượng đòi hỏi một thủ tục riêng, chặt chẽ, chẳng hạn thủ tục chạm tay vào vật của người làm chứng.
Nói đến pháp luật La Mã phải thấy rằng xã hội La Mã với chế độ chiếm hữu nô lệ tồn tại kéo dài trên dưới 1000 năm (từ thế kỷ V trước Công nguyên đến thế kỷ V sau Công nguyên), qua các giai đoạn: Vương chính là giai đoạn khi xã hội La Mã chuyển từ xã hội thị tộc sang xã hội có giai cấp, có nhà nước và kéo dài khoảng 2 thế kỷ; chế độ Cộng hòa kéo dài chừng 4 thế kỷ từ thế kỷ V trước Công nguyên đến thế kỷ I trước Công nguyên; đến chế độ Đế chế thế kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ V sau Công nguyên. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, pháp luật La Mã đã trải qua các giai đoạn phát triển tương ứng, trong đó Luật XII bảng ra đời đầu tiên vào giữa thế kỷ V trước Công nguyên là lần pháp điển hóa thứ nhất, đã có một ảnh hưởng to lớn, lâu dài trong suốt thời gian tồn tại của xã hội La Mã cổ đại và trong các xã hội kéo dài hàng ngàn năm sau, đồng thời, phải thấy rằng, pháp luật La Mã không chỉ là Luật XII bảng.
Thế kỷ cuối cùng của nền Cộng hòa (thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên) và 2 thế kỷ đầu tiên của chế độ Đế chế (thế kỷ thứ nhất và thứ hai sau Công nguyên) là thời kỳ cực thịnh của luật La Mã. Các chấp chính quan và các Hoàng đế La Mã, trước ảnh hưởng sâu rộng của Luật XII bảng, không chủ trương trực tiếp phủ định Luật này mà lần lượt đưa ra các lệnh có giá trị như Luật cho các thẩm phán thi hành trong khi xét xử và bằng cách đó, không nhắc tới các quy định của Luật XII bảng. Chủ nghĩa pháp lý hình thức rất tiêu biểu cho Luật XII bảng đã hoàn toàn đi vào dĩ vãng. Các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, thiện chí được thừa nhận chính thức. Các chấp chính quan kế tục nhau khẳng định các lệnh của người tiền nhiệm và dần dần làm hình thành hệ thống pháp luật chấp chính quan. Nhưng xét đến ảnh hưởng lâu dài không chỉ trong xã hội La Mã cổ đại mà cả trong nhiều thế kỷ về sau và đối với những xã hội ngoài La Mã cho đến tận ngày nay, thì không thể không thấy trong các bộ phận cấu thành luật La Mã cổ đại, Luật XII bảng là tiêu biểu hơn cả không chỉ vì tính mở đầu độc đáo mà ở cả nội dung đầy sáng tạo, hoàn chỉnh, cũng vì vậy, Luật XII bảng có tính đại diện. Nói đến Luật La Mã người ta nghĩ ngay đến Luật XII bảng và cũng thường có tình hình đồng nhất Luật La Mã với Luật XII bảng tuy trên thực tế dù Luật XII bảng có tính tiêu biểu, điển hình, có tính đại diện cho luật La Mã nhưng luật La Mã không chỉ cố Luật XII bảng mà tiếp sau Luật XII bảng và để đưa Luật XII bảng thích ứng, phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển, tiến hóa của xã hội La Mã cổ đại, luật La Mã đã có những bước phát triển mới, trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội La Mã cổ đại, từ xã hội Vương chính sang giai đoạn Cộng hòa, có Đại hội nhân dân với thẩm quyền ban hành Luật, cử ra các chức danh cao nhất của Nhà nước, giám đốc thẩm các vụ án tử hình, có Viện nguyên lão đại diện cho 300 thị tộc với quyền quản lý trực tiếp, xây dựng các dự án Luật, ký kết các điều ước hòa bình.
Ra đời và thích ứng với lộ trình phát triển của xã hội La Mã cổ đại, luật La Mã không dừng lại ở nguồn đầu tiên - Luật XII bảng mà qua các giai đoạn phát triển đã có thêm những nguồn mới từ các lần pháp điển hóa về sau. Trong lịch sử luật La Mã, ngoài lần pháp điển hóa đầu tiên mà sản phẩm là Luật XII bảng, ở các giai đoạn phát triển khác nhau, các lần pháp điển hóa tiếp theo đã được tiến hành, có lúc là do các cá nhân tiến hành, như ở cuối thế kỷ III - đầu thế kỷ IV có Codex Gregorianus (Bộ luật Gregorianus); Codex Hermogenianus (Bộ luật Hermogenianus). Dưới triều Hoàng đế Thêôđôxiut II (Theodosius II), ở nửa đầu thế kỷ V lần thể chế hóa chính thức đã được thực hiện. Tiếp đó, một số lần pháp điển hóa nữa cũng đã được thực hiện và lần pháp điển hóa, xét theo quy mô cũng như ý nghĩa rộng lớn hơn cả, được thực hiện dưới triều Hoàng đế Justinianus I (Justinianus I) ở đầu thế kỷ VI, khi nhu cầu thống nhất đế chế La Mã bị phân chia thành miền Đông, miền Tây do bị quân đội "man tộc” chiếm đóng. Đồng thời, nhu cầu bức xúc của giai cấp thống trị chủ nô phải thống nhất pháp luật trên phạm vi toàn đế chế và loại bỏ tất cả những quy định pháp luật lỗi thời để thay vào đó những quy định pháp luật mới có khả năng đáp ứng các quan hệ xã hội đã thay đổi đã được đặt ra. Các tiểu ban đặc biệt đã được thành lập, các luật gia lỗi lạc đã được thu hút vào công cuộc pháp điển hóa. Năm 528, một tiểu ban được giao tập hợp, rà soát các luật do các Hoàng đế ban hành và kết quả là năm 529, cái gọi là bộ luật đầu tiên đã được hoàn thành. Rất tiếc là bộ luật này không còn lưu lại được đến ngày nay. Năm 530, một tiểu ban pháp điển hóa luật - trước tác của các luật gia kinh điển đã được tiến hành và kết quả là năm 533 một tuyển tập gồm 50 tập, gồm các trích dẫn từ tác phẩm của các luật gia nổi tiếng có tính kinh điển đã được kết thúc với tên gọi Digesta (tuyển tập) có hiệu lực bắt buộc như luật. Cũng trong năm 533 cuốn sách giáo khoa cơ bản Luật La Mã - "Các chế định" được xuất bản và có hiệu lực như Luật. Song song với các công trình pháp điển hóa đó, Hoàng đế Justinianus I theo trình tự lập pháp đã giải quyết một loạt vấn đề còn nhiều tranh chấp của pháp luật dân sự. Những văn bản Luật đó được ban hành với tên gọi:“50 quyết định” kết quả là năm 534 một bộ luật mới được ban hành với 12 tập, phân chia theo hàm cấp...
Luật La Mã mà ngày nay vẫn đang thu hút sự quan tâm của nhiều người như một giá trị pháp lý đáng trân trọng hình thành trong cả một quá trình kéo dài trên dưới một ngàn năm, trong đó, phần pháp luật dân sự là bộ phận nổi bật nhất mà các chế định của nó, từ quyền sở hữu, vật quyền, hợp đồng, trái vụ, hôn nhân và gia đình, thừa kế vẫn còn giữ nguyên giá trị, ví như lời nhận xét của Ăngghen: “Đó là hình thức pháp luật hoàn chỉnh nhất có cơ sở là chế độ sở hữu tư nhân mà chúng ta biết được với độ chính xác không thể vượt qua trong việc thể hiện tất cả các quan hệ pháp luật cơ bản của những người chiếm hữu hàng hóa đơn giản (người mua - người bán, chủ nợ - con nợ, hợp đồng, trái vụ...”. Không phải ngẫu nhiên, Ăngghen đã đánh giá: “luật La Mã là sự thể hiện có tính kinh điển về mặt pháp lý điều kiện sống cũng như các mâu thuẫn của một xã hội, nơi sở hữu tư nhân thuần túy thống trị mà tất cả những hệ thống pháp luật về sau không thể đưa được gì có tính cơ bản vào đó”.
LUẬT LAO ĐỘNG
1. Ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, điều chỉnh các quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động với người lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động phát sinh trong quá trình sử dụng lao động.
Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là các quan hệ xã hội về sử dụng lao động (quan hệ lao động) và các quan hệ phát sinh trong quá trình sử dụng lao động (quan hệ liên quan đến quan hệ lao động) gồm quan hệ về việc làm, quan hệ học nghề quan hệ về bồi thường thiệt hại, quan hệ về bảo hiểm xã hội, quan hệ giữa người sử dụng lao động và đại diện của tập thể lao động, quan hệ về giải quyết tranh chấp lao động và các cuộc đình công quan hệ về quản lý lao động.
Phương pháp điều chỉnh của luật lao động: 1) Phương pháp thỏa thuận: phương pháp này chủ yếu áp dụng trong trường hợp xác lập quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động và trong việc xác lập thỏa ước lao động tập thể; 2) Phương pháp mệnh lệnh: được sử dụng trong lĩnh vực tổ chức và quản lý lao động, chủ yếu được dùng để xác định nghĩa vụ của người lao động đối với người sử dụng lao động; 3) Phương pháp thông qua các hoạt động công đoàn, tác động vào các quan hệ phát sinh trong quá trình lao động: phương pháp này được sử dụng để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình lao động có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động như: sắp xếp việc làm, điều động lao động, trả công, trả thưởng, thực hiện bảo hiểm xã hội... phải có sự tham gia của tổ chức công đoàn với tư cách là người đại diện để bảo vệ quyền lợi của giới lao động.
Một khoa học pháp lý chuyên ngành, có đối tượng nghiên cứu là toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật lao động, bản chất, nội dung, sự phát sinh, phát triển của các quy phạm; nghiên cứu những nét đặc trưng của các quan hệ pháp luật lao động; nghiên cứu các quan điểm, khái niệm, tư tưởng, học thuyết pháp lý có liên quan đến ngành luật lao động; nghiên cứu mối quan hệ hữu cơ giữa quan hệ sản xuất và pháp luật lao động.
Một môn học trong chương trình đào tạo luật theo các cấp độ khác nhau, nhằm trang bị cho người học những hiểu biết về quan hệ lao động và các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Bộ luật lao động đang có hiệu lực là Bộ luật lao động năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2012
LUẬT LỰA CHỌN (LEX VOLUNTATIS)
Pháp luật của nước do các bên chủ thể lựa chọn khi giao kết hợp đồng hoặc do cơ quan tiến hành tố tụng (Tòa án, Trọng tài) lựa chọn.
Là một trong những hệ thuộc quan trọng của các quy phạm pháp luật xung đột, luật lựa chọn ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các giao dịch dân sự quốc tế, nhất là các giao dịch thương mại quốc tế.
Khi các bên đã thỏa thuận luật nào sẽ áp dụng để điều chỉnh hợp đồng thì sự thỏa thuận đó thường được ghi vào hợp đồng bằng điều khoản riêng - điều khoản luật áp dụng.
Pháp luật của các nước thường cho phép được tự do lựa chọn luật thích hợp cho hợp đồng. Tuy nhiên, nghiêm cấm việc chọn hệ thống pháp luật trái với luật quốc gia hoặc điều ước quốc tế hoặc nhằm mục đích lẩn tránh pháp luật.
LUẬT MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM NĂM 1999
Đạo luật quy định có hệ thống tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12.6.1999, có hiệu lực từ ngày 26.6.1999.
Mục tiêu của việc ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là nhằm nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đại đoàn kết toàn dân - một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở kế thừa vai trò lịch sử của Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo.
Luật xác định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Về cơ cấu, Luật có 4 chương, 18 điều với những nội dung cơ bản như sau: 1) Những quy định chung: xác định tính chất, vị trí và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và mối quan hệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước; 2) Quy định về trách nhiệm và quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, thi hành Hiến pháp, pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức tham gia các công tác như xây dựng pháp luật, công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; 3) Quy định về những bảo đảm cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: bộ máy giúp việc, trách nhiệm của cơ quan tổ chức, kinh phí hoạt động.
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đạo luật đầu tiên quy định một cách có hệ thống về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là đạo luật đóng vai trò quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
LUẬT MẪU VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA UNCITRAL
Văn bản do Ủy ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế thông qua ngày 21.6.1985, quy định về các vấn đề liên quan đến trọng tài thương mại quốc tế.
Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế gồm 8 chương với 36 điều: Chương I - Những quy định chung; Chương II - Thỏa thuận trọng tài; Chương III - Thành phần của trọng tài; Chương IV - Thẩm quyền của trọng tài; Chương V - Điều hành tố tụng trọng tài; Chương VI - Tuyên phán quyết và kết thúc tố tụng trọng tài; Chương VII - Kháng nghị chống lại phán quyết trọng tài; Chương VIII - Công nhận và cho thi hành các phán quyết của trọng tài.
Dựa vào nội dung của Luật mẫu về trọng tài quốc tế, các tổ chức trọng tài thương mại của các nước có thể xây dựng nên các quy chế cho hoạt động của mình.
LUẬT MÔI TRƯỜNG
Tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý, khai thác, tác động và bảo vệ môi trường.
Các quy phạm pháp luật môi trường có thể chia thành 2 phần: những quy phạm nhằm bảo vệ toàn bộ môi trường (môi trường với tư cách là tổng thể) và những quy phạm bảo vệ từng thành phần môi trường (bảo vệ rừng, đất, nguồn nước, khoáng sản, nguồn lợi thủy sản, không khí, đa dạng sinh học...).
Xuất phát từ bản chất của hoạt động bảo vệ môi trường là bảo vệ các đặc tính tự nhiên vốn có của các thành phần môi trường, vì vậy, các quy phạm pháp luật môi trường thường được xây dựng theo những tiêu chí mang tính kỹ thuật, thể hiện các đặc tính hóa học, sinh học, lý học của các thành phần môi trường.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật bảo vệ môi trường đang có hiệu lực là Luật bảo vệ môi trường năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 23 tháng 6 năm 2014.
LUẬT NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM NĂM 1997
Đạo luật quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12.12.1997, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.10.1998.
Luật được ban hành nhằm xây dựng và thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia; tăng cường quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; góp phần phát triển nền kinh tế; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Phạm vi điều chỉnh của Luật là quan hệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997 là đạo luật kế thừa và phát triển Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 23.5.1990. Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1990 đã đặt cơ sở pháp lý cơ bản cho việc củng cố hệ thống ngân hàng 2 cấp, tách chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh trong hệ thống ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, sau hơn 7 năm thực hiện, Pháp lệnh này đã bộc lộ những mặt hạn chế: chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng nhà nước với tư cách là cơ quan của Chính phủ và là ngân hàng trung ương của quốc gia chưa được quy định cụ thể; một số quy định có liên quan đến chế độ tài chính của Ngân hàng nhà nước chưa rõ và chưa phù hợp với chức năng đặc thù của một Ngân hàng nhà nước; chưa xác định rõ tính chất hoạt động thanh tra của ngân hàng nhà nước; chưa quy định rõ cơ chế hình thành và sử dụng các quỹ dự trữ pháp định của Ngân hàng nhà nước; nội dung quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng quy định chưa rõ, chưa cụ thể...
Luật gồm Lời nói đầu, 7 chương với 63 điều với những nội dung cơ bản như sau: 1) Quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam; 2) Quy định tổ chức bộ máy và hệ thống tổ chức của pháp nhân Ngân hàng nhà nước Việt Nam; 3) Quy định quan hệ quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà nước Việt Nam với các tổ chức tín dụng, các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng; 4) Quy định quan hệ giữa Ngân hàng nhà nước Việt Nam với tư cách là ngân hàng trung ương với các tổ chức tín dụng; 5) Quy định về tài chính, hạch toán kế toán và báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam; 6) Quy định về thanh tra ngân hàng, tổng kiểm soát của Ngân hàng nhà nước; 7) Quy định thẩm quyền xử lý vi phạm của Ngân hàng nhà nước, việc khen thưởng liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Luật xác định rõ Ngân hàng nhà nước Việt Nam vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, vừa là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng mà các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ, Ngân hàng nhà nước là một pháp nhân có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước.
Hiện nay, phổ biến ở các nước hoặc Liên minh kinh tế của một số nước đều có đạo luật về ngân hàng trung ương như Luật ngân hàng Liên bang Đức (Cộng hòa liên bang Đức); Luật ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995 (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa); Luật ngân hàng nhân dân Ba Lan năm 1989 (Ba Lan); Luật ngân hàng quốc gia Hungary năm 1991 (Hungary); Luật ngân hàng Hàn Quốc năm 1950 (Hàn Quốc)... ở Việt Nam, Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997 đặt cơ sở pháp lý cơ bản cho việc tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế của đất nước, có vị trí trung tâm trong hệ thống pháp luật ngân hàng. Kỳ họp thứ 3 Quốc hội Khóa XI ngày 17.6.2003 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997, chủ yếu sửa đổi, bổ sung việc giải thích 17 từ ngữ tại Điều 9, sửa đổi, bổ sung Điều 17 về hình thức tái cấp vốn, Điều 21 về nghiệp vụ thị trường mở, Điều 32 về tạm ứng cho ngân sách nhà nước.
LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2002
Đạo luật quy định về lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước và về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 16.12.2002, có hiệu lực từ năm ngân sách 2004.
Luật nhằm kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của Luật ngân sách nhà nước năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 1998); bảo đảm phát huy vai trò của ngân sách nhà nước; tăng quyền chủ động, trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc quản lý tài chính - ngân sách; đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính; yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và hội nhập quốc tế trong giai đoạn phát triển mới; xây dựng nền tài chính lành mạnh, công khai, minh bạch, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quản lý ngân sách.
Phạm vi điều chỉnh của Luật ngân sách nhà nước năm 2002 là hoạt động lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.
Phạm vi áp dụng của luật ngân sách ở các nước phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước, ở các nước tổ chức hệ thống ngân sách thống nhất gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thì luật ngân sách áp dụng chung cho tất cả các hoạt động ngân sách của chính quyền nhà nước trung ương và địa phương, ở các nước có sự tách biệt giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thì luật ngân sách nhà nước chỉ áp dụng đối với hoạt động ngân sách của chính quyền trung ương. Hệ thống ngân sách nhà nước của Việt Nam tổ chức theo hệ thống thống nhất, gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, nên Luật ngân sách nhà nước áp dụng chung cho tất cả các hoạt động ngân sách của các cấp chính quyền, tương tự Luật ngân sách nhà nước của một số nước như Trung Quốc (Luật ngân sách nhà nước áp dụng từ năm 1992), Luật ngân sách Liên bang Nga (1991)...
Luật ngân sách nhà nước và các quy định về hoạt động ngân sách nhà nước của các cấp chính quyền nhà nước trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước là cơ sở pháp lý cơ bản của hoạt động ngân sách nhà nước ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta quy định tương đối có hệ thống về hoạt động ngân sách của Nhà nước là Bản điều lệ về lập, chấp hành ngân sách nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 168/CP ngày 20.10.1961. Qua các thời kỳ, để đáp ứng yêu cầu quản lý ngân sách nhà nước, Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành nhiều văn bản pháp luật về ngân sách nhà nước. Tuy vậy, sau gần 50 năm xây dựng chính quyền nhân dân, nước ta vẫn chưa có đạo luật về ngân sách nhà nước.
Việc xây dựng Luật ngân sách nhà nước được bắt đầu từ giữa năm 1991, sau nhiều lần chỉnh sửa, ngày 20.3.1996, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, tại kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật ngân sách nhà nước, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 1997.
Kỳ họp thứ 11 ngày 10.5.1997, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Để bảo đảm phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách phù hợp với hai luật thuế này và cải tiến quy trình phê chuẩn dự toán ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp, ngày 20.5.1998, Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ngân sách nhà nước năm 1996.
Luật ngân sách nhà nước năm 2002 gồm lời nói đầu, 8 chương, 77 điều với những nội dung cơ bản sau: 1) Quy định nguyên tắc hoạt động ngân sách của Nhà nước và hệ thống tổ chức ngân sách nhà nước; 2) Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền nhà nước và trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân về ngân sách nhà nước; 3) Quy định nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp; 4) Quy định lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước; 5) Quy định kiểm tra, thanh tra, kiểm toán ngân sách nhà nước và việc khen thưởng, xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.
Nội dung của Luật ngân sách nhà nước năm 2002 có những điểm mới cơ bản so với quy định của Luật ngân sách nhà nước năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ngân sách nhà nước năm 1996 là xác định rõ các cấp ngân sách thuộc hệ thống ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách của các đơn vị hành chính có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; bổ sung yêu cầu minh bạch của nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước; phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, còn nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách trong từng địa phương (cấp tỉnh) do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định; trong việc phân bổ ngân sách, Quốc hội chỉ quyết định đối với ngân sách trung ương; quy định rõ thẩm quyền ban hành các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước (xt. Ngân sách nhà nước).
LUẬT NGHĨA VỤ QUÂN SỰ NĂM 1981
Đạo luật quy định về nghĩa vụ của công dân phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam. Nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của quân đội.
Luật nghĩa vụ quân sự năm 1981 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa VII kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 30.12.1981 và được công bố ngày 10.01.1982, thay thế Luật nghĩa vụ quân sự ngày 15.4.1960 và các Luật sửa đổi, bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự ngày 26.10.1962 và ngày 10.4.1965.
Qua quá trình thực hiện, Luật nghĩa vụ quân sự đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ xây dựng quân đội và củng cố nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Để nâng cao chất lượng Quân đội nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, Quân đội nhân dân phải có lực lượng thường trực và lực lượng dự bị, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong hoàn cảnh mới, đưa Quân đội tiến lên chính quy, hiện đại, ngày 21.12.1990, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa VIII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự, liên quan đến 10 điều (Điều 14, 21, 29, 32, 38, 39, 40, 53, 54, 55) và thay ba điều cũ (Điều 69, 70, 71) bằng Điều 69 mới; tập trung chủ yếu vào những vấn đề chính sau đây: giảm thời hạn phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ; giảm tuổi phục vụ ở ngạch dự bị của hạ sĩ quan và binh sĩ dự bị; tăng thêm đối tượng tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình; bảo đảm quyền lợi của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ và khi xuất ngũ, bảo đảm quyền lợi cho gia đình hạ sĩ quan và binh sĩ tại ngũ; quy định chặt chẽ thêm về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp và trách nhiệm của các đơn vị quân đội trong việc tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, giải quyết quân nhân xuất ngũ,quy định việc xử phạt đối với hành vi vi phạm Luật nghĩa vụ quân sự.
Sau 4 năm thực hiện luật được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất năm 1990, tại kỳ họp thứ 5 ngày 22.6.1994, Quốc hội khóa IX lại thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự. Trong lần sửa đổi, bổ sung này, 19 điều luật đã được sửa đổi, bổ sung gồm các điều 10, 14, 17, 19, 21, 23, 24, 25, 26, 29, 40, 42, 51, 52, 53, 55, 56, 61, và 64.
Về bố cục, Luật nghĩa vụ quân sự hiện hành gồm lời nói đầu, 11 chương với 73 điều, gồm những nội dung chính sau: những quy định chung; việc phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ; việc chuẩn bị cho thanh niên phục vụ tại ngũ; việc nhập ngũ và xuất ngũ; việc phục vụ của hạ sĩ quan và binh sĩ dự bị; việc phục vụ của quân nhân chuyên nghiệp; nghĩa vụ, quyền lợi của quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ và dự bị; việc đăng ký nghĩa vụ quân sự; việc nhập ngũ theo lệnh tổng động viên hoặc lệnh động viên cục bộ, việc xuất ngũ theo lệnh phục viên; việc xử lý vi phạm; điều khoản cuối cùng.
Luật nghĩa vụ quân sự được sửa đổi, bổ sung năm 1994 là sự kế thừa và phát triển Luật nghĩa vụ quân sự năm 1960 và Luật nghĩa vụ quân sự năm 1981 cho phù hợp với tình hình và điều kiện của từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Luật nghĩa vụ được sửa đổi, bổ sung năm 1994 tiếp tục thể chế hóa đường lối quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xác định công dân nam giới có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân Việt Nam; đồng thời, đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và nhà trường trong sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng. Ngoài ra, Luật thể hiện rõ quan điểm của Đảng là xây dựng quân đội hùng mạnh, bao gồm xây dựng lực lượng thường trực, chính quy, hiện đại ngày càng cao, đồng thời, xây dựng lực lượng dự bị hùng hậu, sẵn sàng động viên để phát triển lực lượng theo yêu cầu của công cuộc bảo vệ Tổ quốc; xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước, xây dựng kinh tế phải kết hợp chặt chẽ với quốc phòng.
Ngày 14.6.2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự. Theo đó, các điều luật sau được sửa đổi, bổ sung: Điều 12, Điều 14, Điều 16, Điều 22, Điều 24, Điều 29, Điều 37, Điều 39 và Điều 52. Ngoài ra, Luật này cũng sửa đổi, bổ sung về từ ngữ trong một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự.
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật này.
LUẬT NHÂN THÂN
Hệ thống pháp luật liên quan mật thiết đến nhân thân của cá nhân.
Luật nhân thân là một trong những hệ thuộc cơ bản của quy phạm pháp luật xung đột, được cấu thành bởi luật quốc tịch và luật nơi cư trú. Luật quốc tịch (lex patriae hay lex nationalis) là pháp luật của nước mà đương sự là công dân. Luật nơi cư trú (lex domicilli) là pháp luật của nước mà đương sự có nơi cư trú.
Luật nhân thân thường được áp dụng để xác định năng lực pháp luật và năng lực hành vi của thể nhân, điều chỉnh quan hệ thừa kế, quan hệ hôn nhân và gia đình...
LUẬT NƠI THỰC HIỆN HÀNH VI
Pháp luật của nước nơi hành vi được thực hiện.
Đây là một trong những hệ thuộc cơ bản của quy phạm pháp luật xung đột. Hệ thuộc này bao gồm các dạng như: luật nơi giao kết hợp đồng (lex loci contractus) là pháp luật của nước nơi hợp đồng được giao kết, thường được áp dụng để xác định tính hợp pháp về hình thức của hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Ví dụ: “Hình thức của hợp đồng dân sự phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng" (khoản 1 Điều 834 Bộ luật dân sự năm 1995 và nay là khoản 1 Điều 770 Bộ luật dân sự năm 2005); luật nơi thực hiện hợp đồng (locus regit actum) là pháp luật của nước nơi hợp đồng được thực hiện, thường được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về nội dung của hợp đồng. Ví dụ: “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng dân sự được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng...” (khoản 2 Điều 834 Bộ luật dân sự năm 1995 nay là khoản 1 Điều 769 Bộ luật dân sự năm 2005); luật nơi thực hiện nghĩa vụ (lex locisolutionis) là pháp luật của nước nơi nghĩa vụ (nghĩa vụ chính) được thực hiện, thường được áp dụng nhằm giải quyết xung đột pháp luật về nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng; luật nơi thực hiện kết hôn (lex loci celebrationis) là pháp luật của nước nơi tiến hành (đăng ký kết hôn, phần lớn được áp dụng để điều chỉnh việc kết hôn (hình thức kết hôn) có yếu tố nước ngoài. Ví dụ:"Hình thức kết hôn được xác định theo pháp luật của nước ký kết nơi tiến hành kết hôn" (khoản 2 Điều 24 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga); luật nơi thực hiện công việc (lex loci laboris) là pháp luật của nước nơi công việc được thực hiện, thường được áp dụng nhằm giải quyết xung đột pháp luật phát sinh từ các quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài. Theo hệ thuộc này, công việc được thực hiện ở nước nào thì quan hệ lao động sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật nước đó.
LUẬT NƠI XẢY RA HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT
Pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật.
Đây là hệ thuộc cơ bản của quy phạm pháp luật xung đột thường được áp dụng để điều chỉnh việc bồi thường thiệt hại (trách nhiệm dân sự) ngoài hợp đồng. Ví dụ: "Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại”; hoặc “pháp luật áp dụng đối với nghĩa vụ phát sinh ngoài hợp đồng là pháp luật của nước ký kết nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại”.
Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại được thực hiện ở nước này nhưng hậu quả của hành vi đó lại phát sinh ở một nước khác thì: pháp luật một số nước (Italia, Hy Lạp,...) cho rằng, nơi vi phạm pháp luật là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại; pháp luật Anh, Mỹ lại quy định rằng, nơi vi phạm pháp luật là nơi phát sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại, còn pháp luật các nước khác, như: Đức, Việt Nam... lại cho rằng, nơi vi phạm pháp luật có thể là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại. Khoản 1 Điều 835 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: “Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại", quy định này tiếp tục được Bộ luật dân sự năm 2005 quy định tại khoản 1 Điều 773.
LUẬT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP NĂM 1993
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh việc phá sản doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam.
Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 30.12.1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 01. 7.1994.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản. Đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng thì Chính phủ sẽ có quy định riêng về việc áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, khi giải quyết việc phá sản phải thực hiện theo các quy định của Luật phá sản doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các văn bản hướng dẫn cụ thể việc giải quyết phá sản phù hợp với đặc thù của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có những quy định khác.
Phá sản là hệ quả tất yếu của kinh tế thị trường, ở đâu có cạnh tranh gay gắt, sâu sắc, thì ở đó, phá sản cũng trở nên phổ biến và nghiêm trọng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ và những người có liên quan, xác định trách nhiệm của doanh nghiệp mắc nợ, bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động và trật tự, kỷ cương xã hội, góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, Luật phá sản doanh nghiệp đã ra đời.
Bố cục và nội dung cơ bản: Luật phá sản doanh nghiệp gồm 52 điều, được sắp xếp trong 6 chương. Chương I - Những quy định chung, gồm 6 điều, xác định phạm vi áp dụng và đối tượng điều chỉnh; nêu khái niệm doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản; quy định việc hòa giải trong quá trình chuẩn bị mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chương II quy định về thủ tục nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, gồm 8 điều. Các quy định trong chương này hướng dẫn cách soạn đơn, gửi đơn, những người có quyền và nghĩa vụ nộp đơn, các thủ tục nhận đơn và thụ lý đơn, mức phí khi giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chương III gồm 27 điều, quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, bao gồm các vấn đề: quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của hội nghị chủ nợ; thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp... Chương IV quy định về thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, gồm 7 điều. Chương V gồm 2 điều, quy định việc xử lý vi phạm và hậu quả pháp lý của các thành viên lãnh đạo doanh nghiệp sau khi doanh nghiệp phá sản. Chương VI - Điều khoản thi hành gồm 2 điều.
Những điều kiện phát triển kinh tế xã hội khác nhau, cũng như các đặc điểm về lịch sử, văn hóa, tập quán trong mỗi quốc gia có thể ảnh hưởng hoặc chi phối quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về phá sản. Song, có thể nói nếu so sánh hệ thống pháp luật về phá sản ở những quốc gia ban hành từ khá sớm như Luật phá sản của Vương quốc Anh năm 1542, Luật phá sản của Cộng hòa liên bang Đức năm 1887, Luật phá sản Singapore năm 1988, Luật phá sản doanh nghiệp Trung Quốc năm 1986, Luật phá sản Thụy Điển năm 1987, Luật phá sản Nam Tư năm 1989, Luật phá sản Cộng hòa liên bang Nga năm 1992 và Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam năm 1993, cho thấy, chúng khá gần nhau về bố cục, cơ cấu và nội dung cơ bản của từng nhóm quy định. Mục đích của pháp luật phá sản ở Việt Nam cũng như của pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới đều nhằm: bảo vệ quyền về tài sản của các chủ nợ; cơ cấu lại nền kinh tế; bảo vệ quyền lợi của người lao động; bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội.
Sau hơn 10 năm thi hành, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã được thay thế bằng Luật phá sản mới, được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15.6.2004.
LUẬT PHỔ CẬP GIÁO DỤC TIỂU HỌC NĂM 1991
Đạo luật quy định về chính sách và hoạt động phổ cập giáo dục tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5 đối với trẻ em từ 6 đến 14 tuổi tại Việt Nam.
Ngay sau khi giành được chính quyền năm 1945, Nhà nước ta đã quan tâm và khuyến khích việc nâng cao dân trí bằng việc ra các văn bản như sắc lệnh số 20 ngày 08.9.1945, sắc lệnh số 172 ngày 08.9.1946 về việc bắt buộc học chữ quốc ngữ đối với toàn dân. Đồng thời, các phong trào bình dân học vụ, xóa mù chữ cũng được tổ chức trên khắp cả nước. Trải qua các giai đoạn đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước, Nhà nước ta luôn có những chính sách quan tâm đến giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông.
Để bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động phổ cập giáo dục tiểu học ở nước ta, ngày 12.8.1991 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa VIII đã thông qua Luật phổ cập giáo dục tiểu học. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là các hoạt động của các cơ quan, nhà trường, tổ chức, cá nhân trong việc phổ cập giáo dục tiểu học; quản lý nhà nước về phổ cập giáo dục tiểu học; các chế độ về khen thưởng đối với các tổ chức, cá nhân có đóng góp vào sự nghiệp giáo dục cũng như chế độ kỷ luật đối với người gây khó khăn, cản trở việc phổ cập giáo dục tiểu học hoặc có các vi phạm khác theo quy định của Luật này.
Cơ cấu của Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 bao gồm Lời nói đầu, 5 chương với 28 điều với những nội dung cơ bản sau: những quy định chung; quy định về học sinh, nhà trường, gia đình và xã hội trong phổ cập giáo dục tiểu học; quy định về quản lý nhà nước về phổ cập giáo dục tiểu học; quy định về chế độ khen thưởng và xử lý các vi phạm trong phổ cập giáo dục tiểu học.
LUẬT PHÒNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY NĂM 2001
Đạo luật quy định về các hoạt động phòng cháy và chữa cháy; xây dựng lực lượng, trang bị phương tiện, chính sách cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29.6.2001, có hiệu lực kể từ ngày 04.10.2001.
Luật phòng cháy và chữa cháy được ban hành là nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và để cao trách nhiệm của toàn dân đối với công tác phòng cháy, chữa cháy; bảo vệ tính mạng, sức khỏe con người, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân; bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội. Trước đó hình thức văn bản có hiệu lực pháp luật cao nhất là Pháp lệnh quy định việc quản lý nhà nước đối với công tác phòng cháy, chữa cháy được ban hành từ năm 1961.
Phạm vi điều chỉnh của Luật phòng cháy và chữa cháy là các hoạt động về phòng cháy và chữa cháy; xây dựng lực lượng, trang bị phương tiện, chính sách cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy. Theo đó, đối tượng áp dụng là mọi cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân hoạt động, sinh sống tại Việt Nam, phải tuân thủ các quy định của Luật này và các quy định pháp luật có liên quan; trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với Luật này, thì áp dụng theo điều ước quốc tế đó.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, công tác phòng cháy, chữa cháy giữ một vị trí rất quan trọng, liên quan và gắn bó mật thiết tới mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống của con người. Việc đảm bảo an toàn phòng cháy, chữa cháy là bảo vệ trực tiếp tài sản của Nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân; thiết thực góp phần ổn định và phát triển sản xuất, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Để tổ chức thực hiện tốt công tác phòng cháy, chữa cháy, ngày 04.10.1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số 54/LCT công bố Pháp lệnh quy định việc quản lý nhà nước đối với công tác phòng cháy, chữa cháy. Tiếp sau đó, nhiều văn bản pháp luật của các cấp có thẩm quyền được ban hành để điều chỉnh các vấn đề có liên quan đến công tác phòng cháy, chữa cháy. Để quản lý lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy bằng pháp luật theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phù hợp yêu cầu tự nhiên của quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay, cần thiết phải ban hành Luật phòng cháy và chữa cháy tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy ở Việt Nam. Luật phòng cháy và chữa cháy là văn bản pháp luật đầu tiên ở nước ta quy định tương đối có hệ thống, toàn diện, đầy đủ các vấn đề có liên quan đến hoạt động phòng cháy, chữa cháy.
Luật phòng cháy và chữa cháy năm 2001 gồm Lời nói đầu, 9 chương và 65 điều với những nội dung cơ bản sau: Chương I - Những quy định chung: gồm 13 điều, trong đó đáng chú ý là các quy định về nguyên tắc phòng cháy, chữa cháy; trách nhiệm phòng cháy, chữa cháy của công dân, tổ chức; chính sách đối với người tham gia chữa cháy và các hành vi bị nghiêm cấm. Chương II - Phòng cháy: gồm 16 điều, quy định các vấn đề về biện pháp cơ bản trong phòng cháy; phòng cháy đối với nhà ở và khu dân cư, phòng cháy phương tiện giao thông cơ giới, rừng; phòng cháy đối với đặc khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao... Chương III - Chữa cháy: gồm 13 điều, quy định những vấn đề cơ bản về biện pháp chữa cháy; huy động lực lượng, phương tiện để chữa cháy, ưu tiên và bảo đảm quyền ưu tiên cho người, phương tiện tham gia chữa cháy, khắc phục hậu quả vụ cháy... Chương IV - Tổ chức lực lượng phòng cháy và chữa cháy: gồm 7 điều, quy định các vấn đề về lực lượng phòng cháy và chữa cháy; thành lập, quản lý, chỉ đạo đội dân phòng và đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở; tổ chức lực lượng cảnh sát phòng cháy và chữa cháy; chức năng, nhiệm vụ của lực lượng cảnh sát phòng cháy và chữa cháy,... Chương V - Phương tiện phòng cháy và chữa cháy: gồm 4 điều, quy định các vấn đề về trang bị phương tiện phòng cháy và chữa cháy đối với cơ sở, thôn, ấp, bản, tổ dân phố, hộ gia đình, các loại rừng, phương tiện và giao thông cơ giới; trang bị phương tiện cho lực lượng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy; quản lý và sử dụng phương tiện phòng cháy, chữa cháy; sản xuất, nhập khẩu phương tiện phòng cháy và chữa cháy. Chương VI - Đầu tư cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy: gồm 3 điều, quy định về các vấn đề về nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy; ngân sách nhà nước đầu tư cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy; khuyến khích đầu tư cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy. Chương VII - Quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy gồm: 5 điều, quy định về các vấn đề như nội dung quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy; cơ quan quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy; thanh tra phòng cháy và chữa cháy; quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra; quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện. Chương VIII - Khen thưởng và xử lý vi phạm, gồm 2 điều. Chương IX - Điều khoản thi hành gồm 2 điều.
LUẬT PHÒNG, CHỐNG MA TÚY NĂM 2000
Đạo luật quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma túy.
Với nhận thức tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia, ngày 09.12.2000, Quốc hội Khóa X đã thông qua Luật phòng, chống ma túy (Luật số 23/2000/QH10) và có hiệu lực kể từ ngày 01.6.2001. Đây là văn bản luật về phòng chống ma túy đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta.
Luật phòng chống ma túy gồm 56 điều được chia làm 8 chương: Chương I - Những quy định chung (Điều 1 đến Điều 5); Chương II - Trách nhiệm phòng, chống ma túy (Điều 6 đến Điều 14); Chương III - Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy (Điều 15 đến Điều 24); Chương IV - Cai nghiện ma túy (Điều 25 đến Điều 35); Chương V - Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy (Điều 36 đến Điều 45); Chương VI - Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy (Điều 46 đến Điều 51); Chương VII - Khen thưởng và xử lý vi phạm (Điều 52 đến Điều 54); Chương VIII - Điều khoản thi hành (Điều 55 đến Điều 56).
Chất ma túy trong Luật này được hiểu là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
Luật phòng, chống ma túy quy định rõ phòng, chống ma túy là trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội chứ không phải chỉ là trách nhiệm của ngành công an, y tế hoặc các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nhà nước có chính sách khuyến khích, bảo vệ cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia phòng, chống tệ nạn ma túy; tổ chức đấu tranh chống các tội phạm về ma túy và sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội, nghiệp vụ để tuyên truyền, vận động nhân dân, cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia phòng, chống tệ nạn ma túy; kết hợp phòng, chống tệ nạn ma túy với phòng, chống các loại tội phạm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác. Luật cũng quy định rõ Nhà nước Việt Nam thực hiện các điều ước quốc tế về phòng, chống ma túy và các điều ước quốc tế khác có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi; hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong hoạt động phòng, chống ma túy. Cá nhân, tổ chức nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam có trách nhiệm tuân thủ các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam về phòng, chống ma túy.
Theo quy định của Luật, các hành vi sau bị nghiêm cấm: trồng cây có chứa chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, bảo quản, mua bán, phân phối, giám định, xử lý, trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, nghiên cứu trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần; sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; xúi giục, cưỡng bức, lôi kéo, chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất, sử dụng trái phép chất ma túy; hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội về ma túy mà có; chống lại hoặc cản trở việc cai nghiện ma túy; trả thù hoặc cản trở người có trách nhiệm hoặc người tham gia phòng, chống ma túy; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
LUẬT QUỐC TẾ X. Công pháp quốc tế; Tư pháp quốc tế.
LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 1998
Đạo luật với hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh và quy định về các vấn đề hưởng và mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch Việt Nam của người chưa thành niên và của con nuôi; xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến quốc tịch Việt Nam.
Luật quốc tịch Việt Nam được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20.5.1998, thay thế Luật quốc tịch năm 1988 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1999.
Năm 1988, lần đầu tiên Nhà nước ban hành Luật quốc tịch, vấn đề đã được chính quyền nhân dân đặc biệt quan tâm. Ngay trong những ngày tháng đầu tiên, chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tục ban hành các văn bản: sắc lệnh số 53/SL ngày 20.10.1945, sắc lệnh số 73/SL ngày 07.12.1945, Điều 6 sắc lệnh số 215/SL ngày 20.8.1948, sắc lệnh số 51/SL ngày 14.12.1959, Nghị quyết số 1043 NQ/TVQH ngày 08.12.1971 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đây là những văn bản pháp luật được ban hành ngay trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sau khi thống nhất đất nước, các quy định trong các văn bản này không còn phù hợp nữa. Mặt khác, trước yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật và kịp thời điều chỉnh các quan hệ phức tạp liên quan đến quốc tịch Việt Nam, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa VIII ngày 28.6.1988 đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam gồm 6 chương,18 điều. Qua 10 năm thực hiện Luật quốc tịch năm 1988 có một số quy định cần được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản, đồng thời kịp thời thể chế hóa đường lối đổi mới với chủ trương mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa ngày càng có nhiều người nước ngoài đến Việt Nam và người Việt Nam ra nước ngoài kinh doanh, sinh sống, kết hôn... đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến các chế định quốc tịch.
Luật quốc tịch năm 1998 đã trở thành một cơ sở pháp lý quan trọng tăng cường quản lý nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến quốc tịch, khẳng định rõ ràng chính sách của Nhà nước ta trong vấn đề bình đẳng dân tộc, bình đẳng trong việc hưởng quốc tịch, đồng thời đề cao vinh dự, ý thức trách nhiệm của công dân Việt Nam trong việc hưởng quyền và làm nghĩa vụ công dân, tăng cường sự gắn bó mọi người Việt Nam dù cư trú trong nước hay nước ngoài, Luật khẳng định: ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch Việt Nam - Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, mọi thành viên của các dân tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam.
Về đối tượng điều chỉnh: Luật quốc tịch điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến các trường hợp được hưởng quốc tịch Việt Nam, mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch Việt Nam của người chưa thành niên và của con nuôi; các quan hệ phát sinh giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc tịch Việt Nam với nhau và với người có quốc tịch Việt Nam.
Về phạm vi điều chỉnh, Luật chỉ điều chỉnh các trường hợp liên quan đến quốc tịch Việt Nam, không điều chỉnh các trường hợp mất quốc tịch nước ngoài khi người nước ngoài gia nhập quốc tịch Việt Nam.
Về cơ cấu và nội dung cơ bản Luật có 6 chương với 42 điều: Chương I - Những quy định chung: quy định về quyền đối với quốc tịch; giải thích các thuật ngữ liên quan đến quốc tịch Việt Nam; nguyên tắc một quốc tịch; quan hệ giữa Nhà nước và công dân; chính sách của Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam, hạn chế tình trạng không quốc tịch... Chương II quy định về có quốc tịch Việt Nam. Chương III quy định về trường hợp mất quốc tịch Việt Nam. Chương IV quy định về vấn để thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi. Chương V quy định về thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch. Chương VI quy định về điều khoản thi hành.
So sánh Luật quốc tịch Việt Nam với Luật quốc tịch của các nước trên thế giới cho thấy, các nước thường áp dụng một trong hai nguyên tắc là nguyên tắc huyết thống và nguyên tắc nơi sinh để giải quyết vấn đề hưởng quốc tịch cho công dân nước mình. Việc vận dụng không thống nhất hai nguyên tắc này dẫn đến tình trạng trên thế giới có người mang hai quốc tịch nhưng ngược lại lại có người không mang quốc tịch một nước nào. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 đã kết hợp chặt chẽ cả hai nguyên tắc nói trên để giải quyết vấn đề hưởng quốc tịch cho mọi trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam, không để một trẻ em nào sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam rơi vào tình trạng không có quốc tịch.
LUẬT SĨ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM NĂM 1999
Đạo luật quy định tổ chức và hoạt động, quyền và nghĩa vụ cũng như công tác quản lý sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21.12.1999, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.04.2000.
Văn bản luật đầu tiên quy định về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là Luật quy định chế độ phục vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 29.4.1958. Qua hơn 20 năm thực hiện, Luật năm 1958 được thay thế bởi Luật về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1981 và được sửa đổi, bổ sung năm 1990. Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 là đạo luật thứ ba về sĩ quan quân đội của Nhà nước ta ban hành, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Mục tiêu của việc ban hành Luật năm 1999 là nhằm quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền của các sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam đang tại ngũ cũng như nguồn đào tạo và sử dụng sĩ quan dự bị phù hợp với Hiến pháp năm 1992 cũng như phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong thời kỳ phát triển của đất nước.
Tương ứng với các mục tiêu đó, đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là những quan hệ về tổ chức, hoạt động của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh và khẳng định trước hết là vị trí, nhiệm vụ và quyền hạn, các quyền và nghĩa vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong quân đội cũng như trong bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về cơ cấu, Luật có 7 chương, 51 điều với những nội dung cơ bản như sau: những quy định chung, quy định về vị trí, chức năng, nguồn tuyển chọn, bổ sung, quyền, nghĩa vụ và các trách nhiệm của sĩ quan, tiêu chuẩn, hệ thống cấp bậc, ngạch sĩ quan; quy định về quân hàm, chức vụ sĩ quan, việc thăng cấp, giáng cấp; quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của sĩ quan; quy định về sĩ quan dự bị; quy định về quản lý nhà nước về sĩ quan; quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm.
Nội dung của Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 có nhiều điểm mới cơ bản so với Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1981 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1990 như bổ sung thêm điều kiện để trở thành sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và chịu sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; ngoài ra còn bổ sung các quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là các quy định về các quyền và quyền lợi của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam cùng các quy định đảm bảo các quyền lợi đó. Luật cũng quy định cụ thể về các chức vụ do sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam đảm nhiệm, việc bổ nhiệm các chức vụ đó và các điều kiện, tiêu chuẩn cụ thể cho các chức vụ, hạn tuổi cao nhất mà các sĩ quan được phục vụ trong các chức vụ và cấp bậc trong quân đội, các chế độ đối với các sĩ quan như chế độ đào tạo và bồi dưỡng, chế độ khám chữa bệnh và điều trị đối với sĩ quan và người thân; các quy định cụ thể về sĩ quan biệt phái, sĩ quan dự bị, quản lý nhà nước đối với sĩ quan, trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành khác, các chế độ khen thưởng, xử lý vi phạm đối với các sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 cũng là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tăng cường quản lý và sử dụng các sĩ quan cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
LUẬT TÀI CHÍNH CÔNG
Bộ phận của luật tài chính, tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động tài chính, thu chi của Nhà nước.
Tùy thuộc vào sự phân chia hệ thống pháp luật ở mỗi nước mà các bộ phận pháp luật tài chính được xem là một ngành luật hoặc chia ra thành các ngành luật.
Hệ thống pháp luật của các nước theo hệ pháp luật châu Âu lục địa được chia thành công pháp và tư pháp thì luật tài chính thuộc luật công. Trong một thời gian dài bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ quản trị tài chính công được quan niệm là bộ phận cấu thành của luật hành chính. Do đó, cho đến cuối thế kỷ XIX, các cuốn sách giáo khoa về luật hành chính được ấn hành ở những nước này đều dành những chương cuối viết về luật tài chính công và thuế. Cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, các hoạt động của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính cũng ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp. Tương ứng với sự phát triển đó, bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ quản trị tài chính công cũng được chú trọng hơn. Điều đó dẫn đến hệ quả là bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ quản trị tài chính công ngày càng phát triển và có vị trí độc lập tương đối trong hệ thống pháp luật và được gọi là luật tài chính công. Luật tài chính công bao gồm các bộ phận cấu thành chủ yếu như sau: bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ hoạt động của Nhà nước trong lĩnh vực ngân sách nhà nước; bộ phận pháp luật quy định địa vị pháp lý của các định chế tài chính công (ngân hàng trung ương, ngân khố quốc gia...) của doanh nghiệp công.
Trong xã hội tư sản, từ thế kỷ XIX trở về trước, tài chính công được hình thành trên nền tảng của nền kinh tế tự do cạnh tranh. Nhà nước lúc đó tách biệt chức năng chính trị với hoạt động kinh tế. Tài chính công chỉ là để phục vụ cho các hoạt động đơn thuần về mặt chính trị của Nhà nước. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 - 1933, vai trò của Nhà nước tư sản đã thay đổi, chức năng kinh tế ngày càng được chú trọng song song với chức năng chính trị vốn có.
Hệ thống pháp luật của các nước xã hội chủ nghĩa dựa vào tiêu chí là đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, được phân chia thành các ngành luật, trong đó có luật tài chính. Luật tài chính được quan niệm là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình lập, phân phối và sử dụng có kế hoạch các quỹ tiền tệ của Nhà nước, cần thiết cho việc thực hiện chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước xã hội chủ nghĩa nắm độc quyền kinh doanh bảo hiểm và ngân hàng nên các quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực này cũng mang đặc tính là quan hệ quản lý nhà nước. Do đó, ở các nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ này, luật tài chính được quan niệm bao gồm các bộ phận: pháp luật về ngân sách nhà nước và thuế; pháp luật về tài chính của các doanh nghiệp nhà nước và các ngành kinh tế quốc dân; pháp luật về tín dụng nhà nước; pháp luật về bảo hiểm nhà nước (bảo hiểm thương mại); pháp luật về ngân hàng.
Ở Việt Nam hiện nay, việc phân chia hệ thống pháp luật còn có một số quan điểm khác nhau. Do đó, các quan niệm về cấu trúc của mô hình luật tài chính công được hiểu theo một nghĩa tương đối. Trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 của Chính phủ, đã xem cải cách tài chính công là một trong bốn nội dung cơ bản của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước.
LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC NĂM 1998
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh việc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
Luật tài nguyên nước được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20.5.1998, có hiệu lực kể từ ngày 01.01.1999. Luật khẳng định tài nguyên nước thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Tài nguyên nước bao gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất, nước biển thuộc lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nước biển, nước dưới đất thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa được quy định tại các văn bản pháp luật khác. Đối với nước khoáng, nước nóng thiên nhiên thì do Luật khoáng sản quy định. Luật tài nguyên nước quy định phạm vi điều chỉnh và quy định quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý tài nguyên nước; xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi cá nhân trong việc bảo vệ tài nguyên nước; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia các quan hệ phát sinh từ việc khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước; quy định các tiêu chuẩn về nước sạch để trên cơ sở đó xác định mức độ ô nhiễm, mức độ suy thoái môi trường nước, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong việc bồi thường thiệt hại, khôi phục hiện trạng môi trường.
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của đất nước, mặt khác, nước cũng có thể gây ra tai họa cho con người và môi trường. Xét về thực trạng, tài nguyên nước của Việt Nam đang ở trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng do các nguyên nhân đốt phá, khai thác rừng bừa bãi, nạn khai thác khoáng sản ở đầu nguồn; việc khai thác các nguồn nước một cách quá mức và không đúng quy định, kỹ thuật; nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp và các chất thải lỏng khác không được xử lý trước khi thải ra các nguồn nước đã gây nên ô nhiễm; trong suốt một thời gian dài, pháp luật bảo vệ tài nguyên nước không được xây dựng đồng bộ, chưa có luật riêng, dẫn đến tình trạng việc quản lý nhà nước đối với tài nguyên nước phân tán, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau. Trong tình hình đó, để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, đề cao trách nhiệm của các chủ thể pháp luật tài nguyên nước trong bảo vệ, khai thác tài nguyên nước, Luật tài nguyên nước được ban hành.
Luật tài nguyên nước có 10 chương với 75 điều. Chương I - Những quy định chung, gồm 9 điều, quy định về quyền sở hữu, sử dụng tài nguyên nước, nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, chính sách quản lý, đầu tư phát triển tài nguyên nước, quy định các hành vi bị nghiêm cấm. Chương II - Bảo vệ tài nguyên nước, gồm 10 điều, quy định về trách nhiệm, phương thức bảo vệ tài nguyên nước, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được phép xả nước thải. Chương III - Khai thác, sử dụng tài nguyên nước, gồm 16 điều, quy định các nguyên tắc, phương thức, biện pháp trong việc điều hòa, phân phối nguồn nước; quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khai thác, sử dụng tài nguyên nước, quản lý, cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước... Chương IV - Phòng, chống, khắc phục hậu quả lũ lụt và tác hại do nước gây ra, gồm 11 điều, quy định về trách nhiệm, cách thức, phương pháp phòng, chống, khắc phục hậu quả lũ, lụt và tác hại khác do nước gây ra. Chương V - Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, gồm 6 điều, xác định rõ trách nhiệm, phương án, phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, bảo vệ đê điều, quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi. Chương VI - Quan hệ quốc tế về tài nguyên nước, gồm 4 điều, quy định về nguyên tắc áp dụng trong quan hệ quốc tế, yêu cầu về hợp tác và phát triển tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về nguồn nước quốc tế. Chương VII - Quản lý nhà nước về tài nguyên nước, gồm 9 điều, quy định nội dung, thẩm quyền quản lý nhà nước về tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước. Chương VIII - Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước, gồm 4 điều. Chương IX - Khen thưởng và xử lý vi phạm gồm 2 điều. Chương X - Điều khoản thi hành gồm 4 điều. Luật tài nguyên nước năm 1998 ra đời đã cùng với một số văn bản pháp luật khác như Luật thỦy sản, Bộ luật hàng hải, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật bảo vệ môi trường... và hệ thống các văn bản của Chính phủ ban hành liên quan đến tài nguyên nước tạo thành hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước, góp phần bảo vệ có hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá - yếu tố quan trọng hàng đầu của môi trường sống.
LUẬT THUẾ CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NĂM 1994
Đạo luật quy định việc thu thuế đối với tổ chức, cá nhân chuyển quyền sử dụng đất, được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 22.6.1994, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.7.1994.
Mục tiêu của việc ban hành Luật là tăng cường quản lý nhà nước về đất đai, khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả, động viên vào ngân sách nhà nước một phần thu nhập của tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Phạm vi điều chỉnh của Luật là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân chuyển quyền sử dụng đất. Luật gồm Lời nói đầu, 7 chương với 24 điều và có những nội dung cơ bản sau: 1) Quy định đối tượng nộp thuế, các đối tượng không thuộc diện nộp thuế: 2) Quy định căn cứ tính thuế, kê khai, nộp thuế; 3) Quy định miễn thuế, giảm thuế; 4) Quy định về xử lý vi phạm, khen thưởng; 5) Quy định về khiếu nại và thời hiệu giải quyết tranh chấp thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Điều 1 và Điều 2 xác định rõ tuy tên Luật là Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất nhưng không phải tất cả các trường hợp chuyển quyền sử dụng đất thì đều phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất. Nguyên tắc chung là: tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất khi chuyển quyền sử dụng đất thì phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất và Điều 1 quy định "đất có nhà và vật kiến trúc trên đó" thì phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất khi chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Tuy vậy, không phải tất cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất khi chuyển quyền sử dụng đất một cách hợp pháp đều phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, mà có một số trường hợp không phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất. Cụ thể là có 6 trường hợp: 1) Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng theo quy định của pháp luật; 2) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trả lại đất được giao cho Nhà nước hoặc Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật; 3) Chuyển quyền sử dụng đất cho người được thừa kế; 4) Người trong hộ gia đình chuyển quyền sử dụng đất cho nhau khi tách hộ, vợ, chồng chuyển quyền sử dụng đất cho nhau khi ly hôn; 5) Tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh bất động sản thuộc đối tượng nộp thuế doanh thu và thuế lợi tức; 6) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân cho thuê đất thuộc đối tượng nộp thuế doanh thu và thuế lợi tức (Điều 2). Căn cứ tính thuế này là: diện tích đất, giá đất tính thuế và thuế suất (Điều 5).
Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1994 là văn bản pháp luật đầu tiên ở Việt Nam quy định về thuế chuyển quyền sử dụng đất. Thực tế thi hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất cho thấy, thuế suất áp dụng có sự phân biệt lớn giữa các loại đất và phụ thuộc vào mục đích chuyển nhượng (mức thấp nhất là 5%, mức cao nhất là 40%), mức thu quá cao, không có sự phân biệt giữa hoạt động kinh doanh với hoạt động chuyển quyền sử dụng đất mang tính chất phi kinh doanh... là bất hợp lý. Những hạn chế này của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1994 từng bước được khắc phục trong các đạo luật sửa đổi, bổ sung được ban hành về sau (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất ngày 21.12.1999).
LUẬT THUẾ DOANH THU NĂM 1990
Đạo luật quy định chế độ thu thuế đối với tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế sản xuất, kinh doanh có doanh thu, được Quốc hội Khóa VIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1990, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.10.1990.
Mục tiêu của việc ban hành Luật là khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thông và động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước.
Phạm vi điều chỉnh của luật là quan hệ thu, nộp giữa Nhà nước với các đối tượng nộp thuế là tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có hoạt động sản xuất, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ và các hoạt động kinh doanh khác (gọi chung là cơ sở kinh doanh) có doanh thu.
Luật được ban hành trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội Khóa VIII, kỳ họp thứ 4 năm 1989 về cải cách chế độ thu ngân sách nhà nước, áp dụng chế độ thu thuế đối với tất cả các thành phần kinh tế. Luật gồm Lời nói đầu, 8 chương với 32 điều và có những nội dung cơ bản như sau: 1) Quy định đối tượng nộp thuế; Các trường hợp không thuộc diện nộp thuế doanh thu (sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, sản xuất hàng hóa xuất khẩu); 2) Quy định căn cứ tính thuế; đăng ký, kê khai nộp thuế doanh thu; 3) Quy định giảm thuế, miễn thuế doanh thu; 4) Quy định xử lý vi phạm Luật thuế doanh thu và việc khen thưởng; 5) Quy định về khiếu nại, thời hiệu giải quyết tranh chấp liên quan đến thu, nộp thuế doanh thu.
Luật thuế doanh thu năm 1990 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 05.7.1993) đã đóng vai trò là văn bản luật đầu tiên áp dụng thống nhất thuế doanh thu đối với tất cả các cơ sở kinh doanh không phân biệt thành phần kinh tế, không phân biệt cơ sở kinh doanh trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, theo quy định của Luật, việc thu thuế tính trên doanh thu nên đã dẫn đến tình trạng thu thuế trùng lặp đối với doanh thu và thuế tính chồng lên thuế. Năm 1997, Luật thuế giá trị gia tăng được ban hành và kể từ ngày luật này có hiệu lực thi hành (ngày 01.01.1999) Luật thuế doanh thu và các quy định về thuế doanh thu trong các văn bản quy phạm pháp luật khác chấm dứt hiệu lực thi hành (Xt. Luật thuế giá trị gia tăng).
LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG NĂM 1997
Đạo luật quy định chế độ thu thuế đối với tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế sản xuất, kinh doanh có doanh thu, được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10.5.1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1999.
Mục tiêu của việc ban hành Luật là góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa, dịch vụ phát triển, động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước.
Phạm vi điều chỉnh của Luật là quan hệ thu nộp thuế giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế.
Luật phân biệt hai khái niệm: đối tượng chịu thuế là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (Điều 2) và đối tượng nộp thuế là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hóa chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) (Điều 3). Luật cũng quy định rõ 26 đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng như sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thỦy sản chưa chế biến hoặc chỉ qua sơ chế..., sản phẩm muối; thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được; dịch vụ y tế, tín dụng, quỹ đầu tư...
Theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng, Nhà nước thu thuế vào phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Do đó, phương thức thu thuế theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng khắc phục được tình trạng Nhà nước thu thuế trùng lặp về doanh thu, thu thuế chồng lên thuế như phương thức thu thuế doanh thu theo quy định của Luật thuế doanh thu năm 1990. Do tính ưu việt của phương thức thu thuế đối với phần giá trị tăng thêm so với phương thức thu thuế đối với toàn bộ doanh thu mà ngày nay hơn 100 nước trên thế giới áp dụng mô hình thuế giá trị gia tăng như: Thụy Điển (năm 1969), Trung Quốc (năm 1994), Philippin (năm 1988), Áo (năm 1973), Cộng hòa liên bang Đức (năm 1968), Argentina (năm 1975), Nhật Bản (năm 1989)...
Luật thuế giá trị gia tăng của Việt Nam ban hành năm 1997 gồm Lời nói đầu, 7 chương với 30 điều và có những nội dung cơ bản sau: 1) Quy định đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, các trường hợp không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng; 2) Quy định căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế giá trị gia tăng; 3) Quy định việc đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế; 4) Quy định xử lý vi phạm Luật thuế giá trị gia tăng và việc khen thưởng; 5) Khiếu nại và thời hiệu giải quyết tranh chấp liên quan đến thuế giá trị gia tăng.
Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 là văn bản luật đầu tiên đặt cơ sở pháp lý cho việc áp dụng thuế giá trị gia tăng, sắc thuế mang tính hiện đại và được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Luật thuế giá trị gia tăng trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số bất cập và đã được Quốc hội kịp thời khắc phục, bằng việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội Khóa XI ngày 17.6.2003.
LUẬT THUẾ LỢI TỨC NĂM 1990
Đạo luật quy định việc thu, nộp thuế lợi tức đối với tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có lợi tức từ các hoạt động sản xuất, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ và hoạt động kinh doanh khác trên lãnh thổ Việt Nam, được Quốc hội Khóa VIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 30.6.1990, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.10.1990.
Phạm vi điều chỉnh của Luật thuế lợi tức năm 1990 là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân có lợi tức từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Luật gồm Lời nói đầu, 8 chương với 40 điều và có những nội dung cơ bản sau: 1) Quy định tổ chức, cá nhân có lợi tức hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế; 2) Quy định lợi tức chịu thuế, biểu thuế, kê khai, nộp thuế; 3) Quy định miễn, giảm thuế lợi tức; 4) Quy định xử lý vi phạm, khen thưởng; khiếu nại, thời hiệu; 5) Tổ chức thực hiện.
Luật thuế lợi tức năm 1990 là văn bản luật đầu tiên ở Việt Nam quy định áp dụng thu thuế lợi tức chung cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc tất cả các thành phần kinh tế trong nước. Luật có một số hạn chế như chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh trong nước, không áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; mức thu thuế quá cao (mức thấp nhất là 30%, mức cao nhất là 50%) và có sự phân biệt giữa các ngành, nghề kinh doanh; phạm vi áp dụng hẹp; tên thuế lợi tức không tương thích với tính chất thu nhập chịu thuế của cơ sở sản xuất, kinh doanh. Những hạn chế này của Luật thuế lợi tức năm 1990 được từng bước sửa đổi, bổ sung bằng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế lợi tức được thông qua năm 1993 và cuối cùng được bãi bỏ, thay thế bằng các luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 và năm 2003.
LUẬT THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP NĂM 1993
Đạo luật quy định chế độ thu, nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp, được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 10.7.1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1994.
Mục tiêu của việc ban hành Luật là khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, thực hiện công bằng, hợp lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách nhà nước.
Phạm vi điều chỉnh của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước và tổ chức, cá nhân sử dụng đất sản xuất nông nghiệp.
Sau Cách mạng tháng Tám, Điều lệ thuế nông nghiệp được ban hành theo sắc lệnh số 131/SL ngày 11.5.1951, sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng nhiều văn bản pháp luật nhưng về bản chất, thuế nông nghiệp là thuế thu vào hoa lợi của việc sử dụng đất nông nghiệp. Năm 1983, Hội đồng Nhà nước (theo quy định của Hiến pháp năm 1980) ban hành Pháp lệnh thuế nông nghiệp. Theo Pháp lệnh này, thuế nông nghiệp vừa mang đặc tính của thuế đất, vừa mang đặc tính của thuế đối với hoa lợi của việc sử dụng đất nông nghiệp.
Đặc trưng của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993 là Nhà nước quy định thu thuế không phụ thuộc vào kết quả thực tế sử dụng đất của người nộp thuế. Luật này gồm Lời nói đầu, 9 chương với 39 điều và có những nội dung cơ bản như sau: 1) Quy định đối tượng nộp thuế đất thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp; 2) Quy định căn cứ tính thuế; kê khai, tính thuế và lập sổ thuế; thu, nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp; 3) Quy định giảm thuế, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp; 4) Quy định xử lý vi phạm, khiếu nại và thời hiệu.
Luật thể hiện rất rõ chính sách của Nhà nước trong việc khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện sản xuất còn lạc hậu, đời sống của nông dân còn thấp kém. Điều đó thể hiện ở chính sách miễn, giảm thuế trên diện rộng (miễn, giảm cho trường hợp gặp thiên tai, địch họa; cho nông dân vùng sâu, vùng xa đời sống khó khăn; đối tượng chính sách...).
Cơ quan chủ quản: Công ty cổ phần Tư Vấn Đầu Tư và Ứng Dụng Công Nghệ 4.0.
Chịu trách nhiệm chính: Bà Nguyễn Thị Ngọc Hà.
Giấy chứng nhận ĐKDN số: 0108234370, do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 18/04/2018.
Địa chỉ: Dương Hà, Gia Lâm, Hà Nội - VPGD: C2 Vincom, 119 Trần Duy Hưng, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
Điện thoại: 024.6294.9155 - Hotline: 0986.426.961 - Email: info@hethongphapluat.com