
Thuật ngữ pháp lý
Đang xem kết quả 91 đến 120 trong tổng số 191 thuật ngữ
LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT NĂM 1996
Đạo luật quy định về thẩm quyền, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12.11.1996, Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.1997 và thay thế Nghị quyết của Hội đồng nhà nước về quy chế xây dựng luật và pháp lệnh ngày 06.8.1988. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng pháp luật, kịp thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phạm vi điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là các vấn đề liên quan đến thẩm quyền, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chất lượng, hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, hoạt động lập quy của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của các bộ, cơ quan ngang bộ, chất lượng, hiệu quả của hoạt động đó.
Đối tượng áp dụng là hoạt động lập pháp, lập quy của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, của các cơ quan hành pháp, tư pháp cao nhất.
Qua mỗi thời kỳ phát triển có tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều kịp thời ban hành Hiến pháp và hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, thể chế hóa các thành quả cách mạng, thiết định về mặt hiến pháp chế độ xã hội, chế độ nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các thể chế của nền dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả quản lý xã hội bằng pháp luật theo tinh thần đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế của Hiến pháp năm 1992, những yêu cầu rất cao đang được đặt ra trước hoạt động lập pháp, lập quy của các cơ quan Nhà nước, trước hết đối với các cơ quan nhà nước cấp cao ở trung ương, đặc biệt là chất lượng, hiệu quả của hoạt động. Chính trên tinh thần đó, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành để đề cao chất lượng, hiệu quả của quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật, trước hết phải đề cao, bảo đảm chất lượng, hiệu quả của hoạt động lập pháp, lập quy.
Sau hơn 6 năm triển khai thực hiện luật, nhiều thành tựu đáng khích lệ đã thu được trên lĩnh vực lập pháp, lập quy. Tuy nhiên, trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 vào cuối năm 2001, một số quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 cần được sửa đổi, bổ sung và tại kỳ họp thứ 10, ngày 16.12.2002, Quốc hội Khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật gồm lời nói đầu, 10 chương và 87 điều, gồm những nội dung chính sau: Chương I - Những quy định chung, gồm 10 điều, quy định các vấn đề chung nhất như khái niệm về văn bản quy phạm pháp luật; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật... Chương II - Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản quy phạm pháp luật, gồm 7 điều, quy định các vấn đề về thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước; thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên tịch; thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân. Chương III - Văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, gồm 10 mục và 34 điều, quy định các nội dung như: văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; thẩm tra dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án luật, dự thảo nghị quyết; lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh; lấy ý kiến đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội về dự án luật, dự án pháp lệnh; thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; công bố văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; giải thích luật, pháp lệnh. Chương IV - Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, gồm 2 điều, quy định các vấn đề về lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; soạn thảo dự thảo lệnh, quyết định. Chương V - Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, gồm 19 điều, 2 mục với nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Chương VI - Văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, gồm 4 điều, quy định các vấn đề về nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; quyết định, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng. Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chương VII - Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch, gồm 4 điều. Chương VIII - Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, gồm 6 điều. Chương IX - Giám sát, kiểm tra, kiểm sát và xử lý văn bản trái pháp luật, gồm 5 điều. Chương X - Điều khoản thi hành, gồm 2 điều.
Để quản lý xã hội bằng pháp luật theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm hướng tới mục tiêu là hình thành ý thức tôn trọng pháp luật, biến khẩu hiệu “sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”, thành phương châm hoạt động của mỗi người dân và lối sống của toàn xã hội.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 22 tháng 06 năm 2015.
LUẬT BÁO CHÍ NĂM 1989
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật về chế độ báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo nguyên tắc bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của công dân.
Luật báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa VIII, kỳ họp thứ 6
thông qua ngày 28.12.1989, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 02.01.1990, được Quốc hội sửa đổi, bổ sung ngày 12.6.1999. Luật báo chí là cơ sở pháp lý bảo đảm để báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động báo chí; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động đúng pháp luật, đồng thời nghiêm cấm, không cho phép ai được lạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật báo chí là toàn bộ các vấn đề thuộc chế độ báo chí trên toàn lãnh thổ Việt Nam, bao gồm: vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí; bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí; các loại hình báo chí; quy định quyền và nghĩa vụ của cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan báo chí, người đứng đầu cơ quan báo chí và nhà báo; quy định những vấn đề cơ bản thuộc quản lý nhà nước về báo chí như nội dung quản lý nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, thanh tra báo chí, lưu chiểu, phát hành, quảng cáo, họp báo; quy định điều kiện hoạt động của báo chí, cấp giấy phép hoạt động báo chí...
Chế độ báo chí Việt Nam lần đầu được quy định tại Sắc lệnh số 282/SL ngày 14.12.1956. sắc lệnh này gồm 3 chương với 19 điều được Quốc hội thông qua bằng Luật số 100/SL-L002 ngày 20.5.1957 về chế độ bảo chí. Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà bước đầu đã thu được những thắng lợi quan trọng về nhiều mặt, để phát huy vai trò của báo chí trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ TỔ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng, ngày 28.12.1989, Luật báo chí đã được ban hành. Sau gần 10 năm thực hiện, năm 1999 Luật báo chí được Quốc hội sửa đổi, bổ sung.
Về bố cục và nội dung cơ bản, Luật báo chí bao gồm lời nói đầu, 7 chương và 30 điều. Mỗi chương, điều của Luật đều có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương và điều luật đó. Chương I - Những quy định chung, quy định vai trò, chức năng của báo chí; những bảo đảm từ phía Nhà nước đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí; các loại hình báo chí. Chương II quy định việc thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Chương III quy định nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí, theo đó quy định cụ thể về việc cung cấp thông tin cho báo chí; trách nhiệm trả lời trên báo chí; cải chính trên báo chí và đặc biệt là quy định những điều mà báo chí không được đưa thông tin. Chương IV quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức báo chí như cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí, Hội nhà báo Việt Nam; quy định về địa vị pháp lý của người đứng đầu cơ quan báo chí, nhà báo, cũng như các quyền và nghĩa vụ cụ thể của nhà báo khi thực hiện nghiệp vụ báo chí trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động báo chí ở nước ngoài... Chương V quy định những vấn đề quản lý nhà nước về báo chí gồm: nội dung quản lý nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, quan hệ quốc tế trong hoạt động báo chí, xuất bản và phát hành báo chí, thanh tra báo chí, điều kiện hoạt động của báo chí, cấp giấy phép hoạt động, thành lập cơ quan đại diện và cơ quan thường trú ở các địa phương, vùng, miền, ở nước ngoài, cơ quan thường trú của báo chí nước ngoài tại Việt Nam, thủ tục nộp lưu chiểu, phát hành, quảng cáo trên báo chí và tổ chức họp báo... Chương VI quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm, các hình thức vi phạm và chế tài áp dụng, theo đó, việc vi phạm pháp luật không chỉ từ phía cơ quan báo chí, người đứng đầu cơ quan báo chí, nhà báo và những người cung cấp thông tin sai sự thật, mà còn từ những cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định về cung cấp thông tin, cản trở hoạt động báo chí, đe dọa, uy hiếp tính mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phá hủy hoặc làm hư hỏng phương tiện, tài liệu của nhà báo và cơ quan báo chí hoặc vi phạm các quy định khác của Luật báo chí đều bị xử lý nghiêm khắc với các chế tài kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chương VII gồm các điều khoản về thi hành luật.
Luật báo chí Việt Nam không thừa nhận các tổ chức báo chí tư nhân. Tư nhân không có quyền ra báo chí. Báo chí ở Việt Nam là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân, để quần chúng nhân dân thông qua đó, nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình, phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới, góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức, cơ quan đó. Đồng thời thông qua báo chí, nhân dân biết được các thông tin về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật Báo chí năm 2016 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 05 tháng 04 năm 2016.
LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NĂM 1993
Văn bản pháp luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố của môi trường.
Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX kỳ họp thứ tư thông qua ngày 27.12.1993, Chủ tịch nước công bố ngày 10.01.1994 bởi Lệnh số 29/L-CTN.
Đối tượng điều chỉnh của Luật bảo vệ môi trường là các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố môi trường bao gồm các loại quan hệ: 1) Các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước về môi trường gồm có: quan hệ phát sinh từ hoạt động đánh giá tác động của môi trường; từ thanh tra việc thực hiện pháp luật và chính sách về môi trường đến quan hệ phát sinh trong việc xử lý vi phạm pháp luật về môi trường; 2) Các quan hệ phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức với nhau về bồi thường thiệt hại giữa các bên do hành vi gây ra ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường; quan hệ phát sinh trong quá trình hợp tác khắc phục hậu quả do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường gây ra; các quan hệ phát sinh trong việc giải quyết các tranh chấp môi trường; quan hệ phát sinh trong việc phối hợp đầu tư vào các công trình bảo vệ môi trường.
Về phạm vi điều chỉnh, Luật bảo vệ môi trường điều chỉnh các hành vi của các cơ quan, các tổ chức, cá nhân trong nước; các tổ chức quốc tế; các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố môi trường trên toàn lãnh thổ, vùng lãnh hải và thềm lục địa của Việt Nam.
Trong điều kiện trước đây, một phần do chiến tranh, vấn đề môi trường chưa được thật sự quan tâm, còn thiếu văn bản pháp luật quy định về bảo vệ môi trường. Trong tiến trình đổi mới toàn diện, cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, đặc biệt là hợp tác phát triển kinh tế đối với các nước trong khu vực và quốc tế, tuy nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, nhưng đất nước cũng đối mặt với một thực trạng đáng quan tâm là môi trường ngày càng bị hủy hoại và hậu quả của nó gây ra ngày càng nghiêm trọng, suy thoái nặng. Công tác quản lý nhà nước về môi trường chưa được quan tâm đúng mức và còn thiếu kinh nghiệm. Trước tình hình đó, Nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật để giải quyết những vấn đề cấp bách về bảo vệ một số thành phần môi trường hoặc quy định một số hoạt động có ảnh hưởng đến môi trường như Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản năm 1989, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991; Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 1993. Mặt khác, nước ta đã ký kết hoặc tham gia một số công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, việc ban hành Luật bảo vệ môi trường là yêu cầu cần thiết đặt ra đối với đất nước và phù hợp với yêu cầu chung của thế giới. Trước bối cảnh đó, Luật bảo vệ môi trường đã được thông qua, trực tiếp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, xác định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ môi trường.
Về cơ cấu và nội dung cơ bản, Luật có lời nói đầu và 7 chương với 55 điều. Mỗi chương đều có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương. Lời nói đầu xác định tầm quan trọng đặc biệt của môi trường và mục đích của việc ban hành Luật. Chương I - Những quy định chung, quy định khái niệm môi trường, bảo vệ môi trường; quy định chung về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc bảo vệ môi trường. Chương II - Phòng, chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. Chương III - Khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong việc áp dụng các biện pháp để khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. Chương IV - Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ môi trường và quyền khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân đối với các quyết định xử lý của cơ quan thanh tra về môi trường và đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Chương V - Quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường, quy định nguyên tắc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong công tác bảo vệ môi trường. Chương VI - Khen thương và xử lý vi phạm. Chương VII - Điều khoản thi hành.
Qua 12 năm thực hiện, Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu của thực tiễn hiện nay, Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã bộc lộ những hạn chế của nó. Vì vậy, Luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29.11.2005. Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường. Luật được áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Luật gồm 15 chương với 136 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.07.2006.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 23 tháng 06 năm 2014.
LUẬT BẢO VỆ SỨC KHỎE NHÂN DÂN NĂM 1989
Đạo luật quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan và những biện pháp nhà nước áp dụng để bảo vệ sức khỏe của nhân dân.
Với nhận thức sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là một trong những điều kiện cơ bản để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ tổ quốc, ngày 30.6.1989, Quốc hội Khóa VIII đã thông qua Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân. Đây là văn bản luật bảo vệ sức khỏe nhân dân đầu tiên trong hệ thống pháp luật nước ta.
Luật gồm 55 điều được chia làm 11 chương với phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, liên quan đến hoạt động của nhiều ngành như y tế, vệ sinh, phòng chống dịch bệnh, kiểm dịch, thể thao, phục hồi chức năng, điều dưỡng và kế hoạch hoá gia đình. Nhiều quy định của Luật thể hiện một tầm nhìn có tính chiến lược như quy định "bảo vệ sức khỏe là sự nghiệp của toàn dân" mà không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành y tế. Bên cạnh ngành y tế thì ngành thể dục thể thao, ngành lao động thương binh xã hội cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Luật cũng quy định quyền của mọi công dân Việt Nam “được bảo vệ sức khỏe, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể; được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường sống và được phục vụ chuyên môn về y tế". Luật còn quy định rõ chính sách phát triển nền y học Việt Nam rất nhất quán đó là phát triển đồng thời cả nền y học hiện đại và y học cổ truyền, không phân biệt, kỳ thị giữa hai nền y học đó. Luật còn quy định trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong việc đảm bảo vệ sinh trong sinh hoạt và lao động, vệ sinh công cộng, phòng và chống dịch bệnh. Luật cũng quy định rõ những chính sách ưu tiên của Nhà nước đối với những đối tượng cần được quan tâm đặc biệt trong công tác bảo vệ sức khỏe như người cao tuổi, thương binh, bệnh binh, người tàn tật và đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em. Luật cũng đặc biệt quan tâm vấn đề quản lý nhà nước đối với việc sản xuất, cấp phép và lưu hành các loại dược phẩm trên thị trường.
Những quy định có tính nguyên tắc của Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân đã được phát triển và cụ thể hoá hơn nữa trong các văn bản pháp luật được ban hành sau này, trong đó phải kể đến Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân (ngày 30.9.1993 và được thay thế bởi Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân ngày 25.02.2003), Bộ luật lao động (ngày 23.6.1994, được sửa đổi, bổ sung ngày 02.4.2002), Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng (ngày 29.8.1994), Pháp lệnh phòng, chống vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) (ngày 31.5.1995), Pháp lệnh người cao tuổi (ngày 28.4.2000), Pháp lệnh thể dục, thể thao (ngày 25.9.2000), Pháp lệnh dân số (ngày 09.01.2003), Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm (ngày 26.7.2003).
LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN NĂM 2003
Đạo luật quy định tiêu chuẩn, điều kiện, cách thức, trình tự, thủ tục của việc ứng cử, bầu cử đại biểu đại diện cho cử tri tham gia vào cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá IX, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26.11.2003. Đây là đạo luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thứ tư trong lịch sử lập pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật này thay thế cho Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 21.6.1994.
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta được ban hành ngày 26.12.1983. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thứ hai trong lịch sử lập pháp nước ta được ban hành ngày 30.6.1989 và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994, đạo luật thứ ba, được ban hành trong bối cảnh Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới) được Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 được ban hành sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung. Luật gồm 79 điều và được chia làm 10 chương. Chương I - Những quy định chung (Điều 1 đến Điều 8); Chương II - Số đại biểu Hội đồng nhân dân, đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu (Điều 9 đến Điều 14); Chương III - Các tổ chức phụ trách bầu cử (Điều 15 đến Điều 22); Chương IV - Danh sách cử tri (Điều 23 đến Điều 28); Chương V - ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 29 đến Điều 47); Chương VI Trình tự bầu cử (Điều 48 đến Điều 54); Chương VII - Kết quả bầu cử (Điều 55 đến Điều 67); Chương VIII - Việc bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 68 đến Điều 75); Chương IX - Xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về bầu cử (Điều 76 đến Điều 77); Chương X - Điều khoản thi hành (Điều 79). Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 quy định rõ chế độ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là một chế độ bầu cử dân chủ theo đó, nguyên tắc bầu cử “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín" được công nhận và thể chế hoá. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám (18) tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt (21) tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Tòa án nhân dân tước các quyền đó.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 06 năm 2015.
LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI NĂM 1997
Đạo luật quy định tiêu chuẩn, điều kiện, cách thức, trình tự, thủ tục của việc ứng cử, bầu cử đại biểu Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật bầu cử đại biểu quốc hội do Quốc hội Khóa IX thông qua ngày 15.4.1997. Luật này thay thế Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1992. Đây là văn bản luật bầu cử đại biểu Quốc hội thứ năm trong lịch sử lập pháp của nước ta. Văn bản quy phạm pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành ngày 02.12.1945. Tiếp đó là các Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1959, năm 1980, năm 1992.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 gồm 90 điều được chia làm 10 chương, cụ thể như sau: Chương I - Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 7); Chương II - Số đại biểu quốc hội, đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu (từ Điều 8 đến Điều 12); Chương III - Các tổ chức phụ trách bầu cử (từ Điều 13 đến Điều 21); Chương IV - Danh sách cử tri (từ Điều 22 đến Điều 27); Chương V - ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội (từ Điều 28 đến Điều 53); Chương VI - Trình tự bầu cử (từ Điều 54 đến Điều 63); Chương VII - Kết quả bầu cử (từ Điều 64 đến Điều 78); Chương VIII - Việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội (từ Điều 79 đến Điều 86); Chương IX - xử lý vi phạm về bầu cử (từ Điều 87 đến Điều 88); Chương X - Điều khoản thi hành (từ Điều 89 đến Điều 90).
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1992 tiếp tục ghi nhận những nguyên tắc của một chế độ bầu cử dân chủ. Luật quy định rõ "việc bầu cử đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”, “công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám (18) tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt (21) tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật”. Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, người đại biểu phải đáp ứng những tiêu chuẩn sau: trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật; có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội. Luật cũng quy định rõ “tổng số đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không quá bốn trăm năm mươi (450) người".
Hiện Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 vẫn có hiệu lực thi hành nhưng đã được sửa đổi, bổ sung một phần lần gần đây nhất vào ngày 25.12.2001 bởi Luật số 31/2001/QH10. Trong đó, tiêu chuẩn thứ nhất của đại biểu Quốc hội được sửa đổi là phải “trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tổng số đại biểu Quốc hội theo Luật sửa đổi, bổ sung năm 2001 sẽ là không quá năm trăm (500) người. Đặc biệt, để đảm bảo sự bình đẳng giới trong hoạt động chính trị, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2001 bổ sung một quy định quan trọng tại Điều 10a “Số đại biểu Quốc hội là phụ nữ do Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo đảm để phụ nữ có số đại biểu thích đáng".
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 06 năm 2015.
LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 1997
Đạo luật quy định tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác ở Việt Nam được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12.12.1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1998.
Mục tiêu của việc ban hành Luật các tổ chức tín dụng là nhằm bảo đảm hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh, an toàn và có hiệu quả; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phạm vi điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng là quan hệ tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc áp dụng đạo luật này được phân biệt theo hai trường hợp, đó là đối với các tổ chức tín dụng thì Luật các tổ chức tín dụng điều chỉnh cả về tổ chức và hoạt động. Còn đối với các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng có thực hiện hoạt động ngân hàng thì cũng áp dụng như đối với hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, còn các quan hệ về tổ chức áp dụng các quy định của pháp luật theo từng loại hình tổ chức. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng rộng hơn Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990. Bởi vì, pháp lệnh này chỉ quy định tổ chức và hoạt động của ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kháng chiến nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa thành lập ngay hệ thống ngân hàng của chế độ mới. Ngày 06.5,1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Theo sắc lệnh này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam vừa thực hiện chức năng phát hành tiền, vừa thực hiện các hoạt động tín dụng và các dịch vụ tiền tệ phục vụ kháng chiến, kiến quốc.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thực hiện nguyên tắc Nhà nước độc quyền về ngân hàng, Nhà nước duy trì mô hình hệ thống ngân hàng một cấp, không có sự tách bạch giữa hệ thống ngân hàng nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh (còn gọi là ngân hàng chuyên nghiệp). Do đó, nội dung các văn bản pháp luật về ngân hàng thời kỳ này không quy định riêng về tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh doanh ngân hàng với tư cách là chủ thể kinh doanh độc lập.
Nhiệm vụ và mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường đặt ra yêu cầu phải cải cách cơ bản hệ thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, tách chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh của hệ thống ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước ở nước ta. Trên cơ sở kinh nghiệm cải cách thí điểm hệ thống ngân hàng theo Quyết định số 59/QĐ ngày 25.6.1987 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam, Quyết định số 218/QĐ ngày 03.7.1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Nghị định số 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 23.5.1990 Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Sau hơn 7 năm thực hiện, Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 cần được sửa đổi, bổ sung và vấn đề tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng ở nước ta trên cơ sở kế thừa, phát triển các quy định của Pháp lệnh đã được nâng lên thành đạo luật để thúc đẩy công cuộc cải cách ngân hàng.
Phạm vi điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 của Việt Nam tương tự quy định của nhiều nước trên thế giới như; Cộng hòa liên bang Đức với luật ngành tín dụng năm 1992, Malaysia với luật các tổ chức tài chính và ngân hàng năm 1989... nhưng khác với phạm vi điều chỉnh của luật một số nước, chẳng hạn, Luật ngân hàng thương mại Trung Quốc năm 1995 chỉ áp dụng đối với Ngân hàng thương mại. Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 gồm lời nói đầu, 11 chương, 131 điều, có những nội dung cơ bản sau đây; 1) Quy định chính sách của Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; 2) Quy định tổ chức và điều hành của tổ chức tín dụng; 3) Quy định hình thức và phương thức hoạt động của tổ chức tín dụng; 4) Quy định các biện pháp bảo đảm an toàn ngân hàng; 5) Quy định kiểm soát đặc biệt, phá sản, giải thể, thanh lý tổ chức tín dụng; 6) Quy định hình thức tổ chức, điều kiện hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, 7) Quy định về quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm toán đối với tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; 8) Quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 là văn bản luật đầu tiên ở Việt Nam quy định có hệ thống về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trong đó có nhiều quy định mới như Ngân hàng nhà nước Việt Nam đồng thời cấp, thu hồi giấy phép thành lập, giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng, quy định ngân hàng cổ phần phải có cổ phần của Nhà nước; không cho phép thành lập ở Việt Nam ngân hàng 100% vốn nước ngoài; áp dụng chế độ kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng thanh toán nợ... Đây là đạo luật đóng vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay, để củng cố và nâng cao hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác, ngày 15.6.2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI, kỳ họp thứ 5, đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng. Theo đó, Điều 4, Điều 12, Điều 20, Điều 30, Điều 31, Điều 32, Điều 37, Điều 38, Điều 39, Điều 42, Điều 45, Điều 46, Điều 52, Điều 53, Điều 57, Điều 79, Điều 81, Điều 84, Điều 105, Điều 122 là những điều được sửa đổi, bổ sung và các điều 6, 7, 8, 9, 10, 43,85,86 bị bãi bỏ.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01.10.2004.
LUẬT CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT NĂM 1953
Đạo luật quy định việc tịch thu, trưng thu, thu mua ruộng đất; cách chia ruộng đất; cơ quan chấp hành và phương pháp thực hiện cải cách ruộng đất nhằm thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân.
Luật cải cách ruộng đất do Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 04.12.1953 và được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ban hành số 197- SL ngày 19.12.1953.
Mục đích của việc cải cách ruộng đất là thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam; thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân; giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển; cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến nhằm đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phóng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc.
Luật cải cách ruộng đất gồm 5 chương với 38 điều. Chương I với duy nhất một điều (Điều 1) quy định về mục đích, ý nghĩa cải cách ruộng đất. Chương II (từ Điều 2 đến Điều 20) quy định về tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất và tài sản của thực dân Pháp và đế quốc xâm lược khác; của địa chủ việt gian, phản động, cường hào gian ác; ruộng đất và tài sản của nhân sĩ dân chủ, địa chủ kháng chiến, địa chủ thường; ruộng đất của địa chủ đã phân tán; ruộng đất công và nửa công nửa tư và ruộng đất của tôn giáo; các loại ruộng đất và tài sản khác. Ruộng đất và tài sản của địa chủ kiêm nhà công thương nghiệp và của nhà công thương nghiệp kiêm địa chủ; ruộng đất vắng chủ, ruộng đất bỏ hoang, ruộng đất và tài sản của ngoại kiều. Chương III (từ Điều 21 đến Điều 31) quy định về cách chia ruộng đất như tài sản chia và ruộng đất, tài sản không chia; người được chia, nguyên tắc chia và quyền của người được chia. Chương IV (từ Điều 32 đến Điều 36) quy định về cơ quan chấp hành và phương pháp thực hiện cải cách ruộng đất. Chương V (từ Điều 37 đến Điều 38) quy định điều khoản thi hành.
LUẬT CÔNG ĐOÀN NĂM 1990
Đạo luật quy định quyền thành lập và gia nhập tổ chức công đoàn của người lao động, quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn các cấp và những biện pháp bảo đảm từ phía Nhà nước và tổ chức sử dụng lao động đối với hoạt động công đoàn.
Luật Công đoàn năm 1990 được Quốc hội khóa VIII thông qua ngày 30.6.1990. Luật này quy định chức năng, quyền và trách nhiệm của Công đoàn, gồm 19 điều, chia làm 4 chương: chương I - Những quy định chung (Điều 1 đến Điều 3); Chương II - Quyền và trách nhiệm của Công đoàn (Điều 4 đến Điều 13); Chương III - Những bảo đảm hoạt động công đoàn (Điều 14 đến Điều 17); Chương IV - Điều khoản cuối cùng (Điều 18 đến Điều 19).
Đạo luật về Công đoàn đầu tiên được ban hành bởi Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 05.11.1957. Luật công đoàn năm 1990 là đạo luật thứ 2 về công đoàn trong lịch sử lập pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là đạo luật của thời kỳ đổi mới, thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế mới này, người lao động không chỉ làm việc cho khu vực quốc doanh hoặc hợp tác xã như trước đây mà còn làm việc cho cả những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân hoặc doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Với bối cảnh đặc thù như vậy, Luật công đoàn năm 1957 trở nên không còn phù hợp và cần được thay thế bởi Luật công đoàn mới.
Luật công đoàn năm 1990 tiếp tục khẳng định bản chất, vai trò và vị trí của các tổ chức công đoàn: "Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam (gọi chung là người lao động) tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam; là trường học xã hội chủ nghĩa của người lao động”.
Luật công đoàn năm 1990 công nhận quyền được thành lập và tham gia hoạt động công đoàn của người lao động Việt Nam bất kể người đó tham gia lao động tại đơn vị sử dụng lao động của Nhà nước hay ngoài nhà nước. Luật cũng quy định rõ cấm mọi hành vi cản trở, vi phạm nguyên tắc tự nguyện tham gia tổ chức và hoạt động công đoàn; phân biệt đối xử với lý do người lao động gia nhập, hoạt động công đoàn.
Luật công đoàn năm 1990 quy định rõ quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn trong các cơ quan, đơn vị, theo đó công đoàn đại điện và tổ chức người lao động tham gia với Nhà nước xây dựng và thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chính sách, cơ chế quản lý kinh tế, chủ trương, chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động.
Luật Công đoàn năm 1990 cũng quy định rõ công đoàn có quyền tham gia xây dựng các chính sách xã hội, có trách nhiệm cùng cơ quan, đơn vị và tổ chức hữu quan chăm lo đời sống văn hóa, hoạt động thể dục, thể thao, tổ chức nghỉ ngơi, du lịch cho người lao động.
Công đoàn đại diện cho người lao động ký thỏa ước lao động tập thể với các đơn vị sử dụng lao động và giám sát việc ký kết và thực hiện hợp đồng lao động. Trong phạm vi chức năng của mình, công đoàn kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hợp đồng lao động, tuyển dụng, cho thôi việc, tiền lương tiền thưởng, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội và các chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động (Điều 9).
Một số quy định trong Luật công đoàn đã được bổ sung bằng các quy định trong Bộ luật lao động năm 1994 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002).
LUẬT CÔNG TY NĂM 1990
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về những điều kiện và trình tự thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức và hoạt động, giải thể, phá sản với hai loại hình công ty chủ yếu là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Luật công ty được Quốc hội Khóa VIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 21.12.1990, có hiệu lực từ ngày 15.4.1991, được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 5 sửa đổi, bổ sung một số Điều ngày 22. 6.1994.
Đối tượng điều chỉnh của Luật là địa vị pháp lý của hai loại hình công ty: công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Ngoài việc quy định chung về quyền và nghĩa vụ, những điều kiện và thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh, giải thể, phá sản, Luật công ty còn quy định các dấu hiệu cơ bản để phân biệt hai loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần; về quy chế thành viên; tổ chức và quản lý, về chế độ góp vốn và chế độ tài chính trong từng loại hình công ty nói trên.
Phạm vi điều chỉnh: ngoài việc quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, Luật công ty đã ghi nhận các nguyên tắc cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường là: tự do kinh doanh, tự do giao lưu kinh tế; Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp, lợi ích chính đáng của các nhà kinh doanh; Nhà nước công nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của chủ thể kinh doanh, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của mọi loại hình doanh nghiệp.
Hoàn cảnh ra đời: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) mở ra thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, trước hết có sự đổi mới về cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, chuyển nền kinh tế nước ta sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới, nhiều chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước ta cũng có sự thay đổi phù hợp. Trong bối cảnh đó, ngày 21.12.1990, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật công ty. Luật công ty ra đời bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho sự phát triển một loại hình doanh nghiệp mới, đó là công ty, tạo điều kiện thuận lợi cho những người có tài sản đầu tư vào kinh doanh, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư vào kinh doanh; là cơ sở pháp lý cho các hoạt động liên kết, hợp tác kinh doanh trên nhiều phương diện khác nhau của nền kinh tế.
Bố cục và nội dung cơ bản: Luật công ty gồm 46 điều, được chia thành 6 chương, mỗi chương đều có tên gọi phản ánh nội dung của chương và các điều luật quy định trong chương đó. Chương I - Những quy định chung, gồm 13 điều, quy định về điều kiện của các chủ thể có quyền góp vốn đầu tư tham gia thành lập các loại hình công ty; quy định quyền của các thành viên khi tham gia công tỉ; chế độ góp vốn; quy mô và phạm vi kinh doanh của công ty; nghĩa vụ của công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh; những ngành nghề không được kinh doanh... Chương II có 11 điều, quy định về thủ tục, trình tự, điều kiện thành lập, đăng ký kinh doanh, giải thể, phá sản công ty. Trình tự, thủ tục phá sản công ty thực hiện theo-quy định của pháp luật về phá sản. Chương III gồm 5 điều, quy định về tổ chức và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó quy định cụ thể về chế độ góp vốn, đặt tên công ty, quá trình hoạt động, các trường hợp gọi thêm vốn hoặc kết nạp thêm thành viên mới. Chương IV có 14 Điều, quy định về tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần, trong đó có các quy định riêng về thành lập công ty cổ phần, quy chế phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vai trò của đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, hoạt động của các kiểm soát viên công ty... Chương V gồm 2 điều, quy định về xử lý vi phạm những trường hợp không thực hiện đúng hoặc cố tình làm trái quy định của Luật công ty. Chương VI - Điều khoản thi hành. Nhìn chung, mặc dù được ra đời trong giai đoạn đầu phát triển về kinh tế thị trường ở Việt Nam, song về cơ bản, Luật công ty với các quy định nền tảng có nhiều điểm tương đồng với pháp luật về công ty của một số nước trên thế giới... Tuy nhiên, ở các nước, công ty còn chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự hoặc Luật thương mại, một số hoạt động của công ty còn phải công khai trên công báo.
Luật công ty năm 1990 ở Việt Nam có hiệu lực đến năm 1999 thì được thay thế bởi Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình gần 10 năm tồn tại, nó đã góp phần to lớn vào việc phát triển loại hình công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn (gần 20 nghìn công ty được thành lập và hoạt động trên phạm vi cả nước), thúc đẩy quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế nhất định của đất nước.
LUẬT DÂN SỰ
Ngành luật trong hệ thống pháp luật, là tổng hợp những quy phạm điều chỉnh các quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự trên cơ sở bình đẳng, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự.
Luật dân sự gồm các nguyên tắc cơ bản và có nhiều chế định khác nhau như: chế định tài sản và quyền sở hữu; chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự; chế định nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi. Về tài sản không có căn cứ pháp luật; chế định thực hiện công việc không có ủy quyền; chế định bồi thường thiệt hại ngoài Hợp đồng; chế định thừa kế; chế định chuyển quyền sử dụng đất; chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Mỗi chế định của luật dân sự đều có những nguyên tắc riêng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản và có những quy phạm được tập hợp theo những tiêu chí riêng phù hợp với chế định đó.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Bộ luật dân sự đang có hiệu lực là Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015
LUẬT ĐẤT ĐAI
Luật quy định về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ sử dụng, về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất đai.
Trong lịch sử xây dựng hệ thống pháp luật về đất đai ở nước ta, Nhà nước đã ban hành Luật đất đai năm 1988; Luật đất đai năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001 và Luật đất đai năm 2003.
Ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ đất đai phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai vì lợi ích của Nhà nước và của người sử dụng đất.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật đất đai đang có hiệu lực là Luật đất đai năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2013
LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 1993
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật được sắp xếp theo một trình tự nhất định, quy định về chế độ quản lý, sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Luật đất đai được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 14.7.1993; Luật này thay thế Luật đất đai năm 1988 và có hiệu lực kể từ ngày 15.10.1993.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật đất đai là chế độ quản lý, sử dụng đất đai trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chế định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, bao gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài đang hoạt động, kinh doanh tại Việt Nam. Về chế độ sở hữu, Luật đất đai năm 1993 tiếp tục xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, theo đó, Quốc hội thực hiện quyền quyết định, giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng đất đai, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong cả nước, ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về đất đai trong địa phương mình theo thẩm quyền, về chế độ sử dụng đất, Luật đất đai quy định: Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong nước, tổ chức và cá nhân nước ngoài thuê đất. Người sử dụng đất ổn định được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được hưởng thành quả lao động trên đất được giao, được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi, được góp quyền sử dụng đất vào các hoạt động kinh doanh..., đồng thời, họ có trách nhiệm bảo vệ, cải tạo, bồi bổ và sử dụng đất hợp lí, có hiệu quả, chấp hành tốt các quy định của pháp luật về việc sử dụng đất.
Đất đai được coi là một nguồn tài nguyên quý hiếm, là tư liệu sản xuất chính không thể thay thế của các ngành sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng của môi trường sống, nhưng trong một thời gian dài, việc quản lý đất đai có phần buông lỏng, có nơi đất đai không được sử dụng đúng mục đích, không khai thác được tiềm năng của đất và người sử dụng đất còn thiếu trách nhiệm trong việc cải tạo, bồi bổ đất. Nhằm bảo đảm để đất đai - một loại tài sản đặc biệt, thực sự có giá trị, có lợi đối với nền kinh tế quốc dân, nhằm bảo đảm trật tự, kỷ cương trong quản lý và sử dụng đất đai, đồng thời, nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 về đất đai, Quốc hội đã thông qua Luật đất đai mới, năm 1993.
Bố cục và nội dung cơ bản: Luật đất đai năm 1993 gồm 7 chương với 89 điều. Chương I - Những quy định chung, xác định rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý; quy định về việc Nhà nước giao đất cho người sử dụng đất, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất, quy định các nghĩa vụ của họ trong quá trình sử dụng đất; quy định về nguyên tắc và thẩm quyền các cơ quan nhà nước trong quản lý đất đai; phân loại đất đai. Chương II quy định về quản lý nhà nước đối với đất đai. Chương III quy định về chế độ sử dụng các loại đất, bao gồm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng. Chương IV quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Chương V quy định về việc tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế thuê đất của Việt Nam. Chương VI quy định về xử lý vi phạm và Chương VII quy định điều khoản thi hành. So sánh Luật đất đai năm 1993 của Việt Nam và các quy định của Luật đất đai một số nước trên thế giới cho thấy, chế độ quản lý và sử dụng đất đai của Việt Nam có những đặc thù khác biệt. Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Việt Nam không thừa nhận chế độ sở hữu tư nhân về đất đai. Tuy nhiên, người được giao đất để sử dụng được pháp luật về đất đai quy định nhiều quyền năng, từ quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, tặng cho, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phù hợp với quy chế từng loại đất, đồng thời có nghĩa vụ bảo vệ, tôn tạo và phát triển, bồi bổ đất để sử dụng hợp lí và hiệu quả. Cho đến nay, Luật đất đai năm 1993 đã được sửa đổi, bổ sung thêm 3 lần vào các năm 1996, 1998, 2001 và đã được thay thế bằng Luật đất đai mới được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26.11.2003, đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về đất đai của Việt Nam.
LUẬT DẦU KHÍ NĂM 1993
Đạo luật quy định về việc bảo vệ, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 06.7.1993, có hiệu lực ngày 01.9.1993.
Mục tiêu của việc ban hành Luật dầu khí là nhằm bảo vệ, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, nhằm phát triển kinh tế quốc dân, khuyến khích các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ, tiến hành các hoạt động dầu khí trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia của Việt Nam.
Phạm vi điều chỉnh của Luật dầu khí là các quan hệ về hoạt động dầu khí, hợp đồng dầu khí, quyền và nghĩa vụ của nhà thầu, phí, quản lý nhà nước về hoạt động dầu khí và những vấn để khác có liên quan đến hoạt động dầu khí.
Đối tượng áp dụng là toàn bộ tài nguyên dầu khí trong lòng đất thuộc đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước Việt Nam thống nhất quản lý.
Về bố cục, Luật dầu khí năm 1993 gồm lời nói đầu, 9 chương, 51 Điều có những nội dung cơ bản sau: những quy định chung; hoạt động dầu khí; Hợp đồng dầu khí; quyền và nghĩa vụ của nhà thầu; thuế và lệ phí; quản lý nhà nước về hoạt động dầu khí; thanh tra các hoạt động dầu khí; xử lý vi phạm; điều khoản thi hành.
Theo tinh thần của Điều 17 Hiến pháp năm 1992: mọi tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển, thềm lục địa... là của Nhà nước, thuộc sở hữu toàn dân. Như vậy, toàn bộ tài nguyên dầu khí trong lòng đất, thuộc đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước Việt Nam thống nhất quản lý; là một dạng tài nguyên đặc biệt, có thể đưa lại những nguồn lợi to lớn cho đất nước. Để quản lý, khai thác và biến nó thành những giá trị hàng hóa và tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi phải có những quy định pháp luật cụ thể, phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới trong lĩnh vực dầu khí, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ để tiến hành các hoạt động dầu khí trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia của Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam.
Luật dầu khí là văn bản pháp luật đầu tiên ở Việt Nam quy định có hệ thống về tổ chức và hoạt động dầu khí. Đây là đạo luật đóng vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí, phát triển mỏ dầu khí, khai thác dầu khí, kể cả xử lý, thu gom; tàng trữ, vận chuyển dầu khí trong khu vực khai thác cho tới điểm giao nhận và định đoạt dầu khí áp dụng đối với các chủ thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp được thành lập theo Luật công ty, doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo Luật doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, tổ chức và cá nhân nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Sau 7 năm thi hành Luật, tháng 6.2000, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dầu khí năm 1993 nhằm tăng cường khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, tạo nên sự hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, nhằm ổn định và gia tăng sản lượng khai thác dầu khí.
LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAMNĂM 1996
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật, được sắp xếp theo một trình tự rõ ràng, quy định, điều chỉnh chế độ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12.11.1996, có hiệu lực từ ngày 23.11.1996, thay thế Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 và hai Luật sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990 và 1992. Theo đó, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thực hiện theo các nguyên tắc: Nhà nước Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tuân thủ pháp luật Việt Nam, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi; Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của các nhà đầu tư nước ngoài.
Đối tượng điều chỉnh của Luật là những quan hệ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam với cách hiểu là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đầu tư vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Phạm vi điều chỉnh của Luật bao gồm các quan hệ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài dưới các hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh; thành lập doanh nghiệp liên doanh; thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ba hình thức đầu tư trực tiếp này cũng được quy định trong Luật đầu tư của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, ở mỗi nước, do có đặc điểm kinh tế - xã hội khác nhau nên các quy định cũng có nhiều điểm khác nhau. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 không điều chỉnh các quan hệ đầu tư gián tiếp như tín dụng quốc tế, viện trợ quốc tế...; các quan hệ đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Hoàn cảnh ra đời: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lần đầu tiên được ban hành năm 1987, sau đó đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào các năm 1990 và 1992. Luật này cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo thành khung pháp luật cơ bản về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, góp phần tích cực thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, mở mang một số ngành nghề mới, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, đưa lại tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sau 10 năm, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 với tính cách là mô hình pháp lý đầu tiên về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không tránh khỏi những hạn chế nhất định cần được khắc phục trong điều kiện mới, khi đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nhằm tạo ra môi trường pháp lý an toàn, hấp dẫn để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cải cách thủ tục hành chính, Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào ngày 12.11.1996 thay thế Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 và hai Luật sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1992.
Bố cục và nội dung cơ bản: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 gồm 6 chương với 68 điều. Chương I - Những quy định chung (gồm 3 điều) quy định về các nguyên tắc, phạm vi, hình thức, lĩnh vực đầu tư, thời hạn đầu tư, phương thức tổ chức đầu tư. Chương II, gồm 16 điều, quy định chi tiết về hình thức đầu tư. Chương III gồm 5 điều, quy định về biện pháp bảo đảm đầu tư, trong đó, Nhà nước Việt Nam bảo đảm đối xử công bằng và thỏa đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chương IV, gồm 29 điều, quy định quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Chương V, gồm 11 điều, quy định về quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, xác định rõ nội dung quản lý nhà nước, thẩm quyền của các cơ quan trung ương và các cơ quan ở địa phương trong việc thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài. Chương VI quy định về Điều khoản thi hành, gồm 4 điều (từ Điều 65 đến Điều 68). Có thể nói, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 đã có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn, nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những mục tiêu trọng điểm, những lĩnh vực ưu tiên phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, ngày 09.6.2000, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều có hiệu lực kể từ ngày 01.7.2000.
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, ngày 29.11.2005 Quốc hội thông qua Luật đầu tư năm 2005. Luật này quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Đối tượng áp dụng của Luật này là nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài; tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư.
Luật này gồm 10 chương, có 89 điều, và có hiệu lực từ ngày 01.07.2006.
LUẬT DI SẢN VĂN HÓA NĂM 2001
Đạo luật quy định hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Với nhận thức di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân, để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới và để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, ngày 29.6.2001, Quốc hội Khóa X đã thông qua Luật di sản văn hóa (Luật số 28/2001/QH10). Đây là đạo luật về di sản văn hóa đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.2002. Luật di sản văn hóa gồm 74 điều, được chia làm 7 chương: Chương I - Những quy định chung (Điều 1 đến Điều 13); Chương II - Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa (Điều 14 đến Điều 16); Chương III - Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể (Điều 17 đến Điều 27); Chương IV - Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể (Điều 28 đến Điều 53); Chương V - Quản lý nhà nước về di sản văn hóa (Điều 54 đến Điều 68); Chương VI - Khen thưởng và xử lý vi phạm (Điều 69 đến Điều 72); Chương VII - Điều khoản thi hành (Điều 73 đến Điều 74).
Di sản văn hóa trong Luật này được hiểu bao gồm cả di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể. Đó là những sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Luật di sản văn hóa quy định rõ trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy di sản văn hóa không chỉ thuộc về ngành văn hóa mà là trách nhiệm chung của mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức, cá nhân và của toàn xã hội. Một quy định rất quan trọng của Luật là việc thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đối với một số loại di sản văn hóa bên cạnh các hình thức sở hữu truyền thống như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng đối với di sản văn hóa. Quy định này tạo điều kiện để huy động toàn dân tham gia vào việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa mà cha ông đã dày công vun đắp và truyền lại. Theo quy định của Luật thì mọi tổ chức, cá nhân đều có các quyền và nghĩa vụ như sở hữu hợp pháp di sản văn hóa; tham quan, nghiên cứu di sản văn hóa; tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; thông báo kịp thời địa điểm phát hiện di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do mình tìm được cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất; ngăn chặn hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi phá hoại, chiếm đoạt, sử dụng trái phép di sản văn hóa.
Luật cũng quy định rõ trình tự, thủ tục công nhận di sản văn hóa, các biện pháp bảo vệ di sản văn hóa, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội đồng di sản văn hóa quốc gia, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan khác trong việc công nhận, bảo vệ, giữ gìn, quản lý các di sản văn hóa (cả di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể).
Luật nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tới di sản văn hóa như chiếm đoạt, làm sai lệch di sản văn hóa; hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di sản văn hóa; đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép; lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; mua bán, trao đổi và vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.
LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế bao gồm tổng hợp các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh trình tự ký kết, điều kiện hợp pháp, hiệu lực và chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế.
Đây là một trong những ngành luật quan trọng của hệ thống pháp luật quốc tế. Ký kết điều ước quốc tế là quyền cơ bản của các chủ thể luật quốc tế. Bất kỳ chủ thể nào của luật quốc tế cũng đều có quan hệ điều ước với các chủ thể khác của luật quốc tế. Vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ban hành các văn bản pháp luật nhằm thống nhất quản lý về mặt nhà nước mọi hoạt động liên quan đến quá trình ký kết, thực hiện các điều ước quốc tế của quốc gia mình. Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia,Công ước Viên năm 1986 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế là những văn bản pháp lý quốc tế quan trọng của luật điều ước quốc tế.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật Điều ước Quốc tế đang có hiệu lực là Luật Điều ước Quốc tế năm 2016 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 09 tháng 04 năm 2016
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 1999
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về những điều kiện, trình tự thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
Luật doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12.6.1999, thay thế Luật công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990, được sửa đổi, bổ sung năm 1994.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội khi được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần thì được điều chỉnh theo Luật này. Về nguyên tắc, việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam áp dụng theo các quy định của Luật doanh nghiệp và các quy định pháp luật khác có liên quan. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật doanh nghiệp và Luật chuyên ngành về cùng một vấn đề, thì áp dụng theo quy định của Luật chuyên ngành.
Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội Khóa VIII thông qua vào cuối năm 1990 (sửa đổi năm 1994) là dấu mốc quan trọng trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế ở Việt Nam. Sau hơn 8 năm tồn tại, Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân đã có những đóng góp tích cực vào thành công của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước yêu cầu tiếp tục cải cách, huy động nội lực để phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, việc ban hành luật mới là rất cấp bách, trong đó, một số vấn đề liên quan đến thành lập, tổ chức quản lý, chuyển đổi cơ cấu của các hình thức tổ chức kinh doanh và mối liên hệ giữa các bên có liên quan trong hình thức tổ chức kinh doanh đó nhằm tạo ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư lựa chọn cần phải được pháp luật quan tâm điều chỉnh và quy định rõ.
Luật doanh nghiệp năm 1999 gồm 10 chương với 124 Điều. Chương I - Những quy định chung, gồm 8 điều, xác định phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc áp dụng và quy định quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp. Chương II - Thành lập và đăng ký kinh doanh, gồm 17 Điều, xác định quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, quyền góp vốn, trình tự thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh; quy định về văn phòng đại diện và chi nhánh của doanh nghiệp, Chương III - Công ty trách nhiệm hữu hạn, gồm 25 điều với 2 mục: "Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên" và “Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên". Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, không được quyền phát hành cổ phiếu, các thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu và chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ, các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Chủ công ty không trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào công ty, mà chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Chủ sở hữu công ty cũng không được rút lợi nhuận nếu như công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả... Chương IV - Công ty cổ phần, gồm 44 điều, quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần, các loại cổ phần, quyền và nghĩa vụ của các loại cổ đông, cổ phiếu và việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu và phát hành trái phiếu, chuyển nhượng cổ phần, trả cổ tức... Chương V - Công ty hợp danh, gồm 4 điều, xác định rõ công ty hợp danh là doanh nghiệp có từ 2 thành viên hợp danh trở lên, ngoài ra, có thể còn có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh là cá nhân, phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (trách nhiệm hữu hạn). Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào... Chương VI có 6 điều, quy định về doanh nghiệp tư nhân - doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê hoặc bán doanh nghiệp của mình... Chương VII - Tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp, gồm 9 Điều, quy định về việc chia doanh nghiệp, tách doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, sáp nhập doanh nghiệp, chuyển đổi công ty, giải thể doanh nghiệp, phá sản doanh nghiệp. Chương VIII - Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, gồm 5 điều, quy định về nội dung quản lý nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh, về các hoạt động thanh tra doanh nghiệp... Chương IX - Khen thưởng và xử lý vi phạm, gồm 3 điều, quy định về chế độ khen thưởng, xác định các hành vi vi phạm Luật doanh nghiệp và hình thức xử lý. Chương X - Điều khoản thi hành, gồm 3 điều, xác định hiệu lực thi hành, một số quy định đối với các doanh nghiệp được thành lập trước khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực. Cụ thể là, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân đã thành lập theo Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân trước đây không phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh lại. Song, nếu công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có Điều lệ không còn phù hợp với các quy định của Luật doanh nghiệp thì phải sửa đổi, bổ sung điều lệ trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày Luật có hiệu lực. Nếu quá hạn mà không sửa đổi, thì điều lệ bị coi là không hợp lệ. Cùng với hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật doanh nghiệp đã tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới các quy định pháp luật xác định địa vị pháp lý của các loại hình kinh doanh ở Việt Nam, góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho mọi công dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tuy nhiên, sau 6 năm thực hiện, Luật doanh nghiệp năm 1999 đã bộc lộ những bất cập của nó. Vì vậy, ngày 29.11.2005 Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp năm 2005. Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế; quy định về nhóm công ty. Đối tượng áp dụng của Luật là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp. Luật gồm 10 chương với 171 điều và có hiệu lực thi hành ngày 01.07.2006.
LUẬT GIÁO DỤC NĂM 1998
Văn bản pháp luật chứa đựng hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động giáo dục, được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 02.12.1998, có hiệu lực từ ngày 01.6.1999.
Ngay sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh số 119/SL ngày 09.7.1946 quy định về tổ chức Bộ Giáo dục. Văn bản này thể hiện một cách cụ thể và rõ nét nhất sự quan tâm của Nhà nước đối với chính sách phát triển giáo dục của nước ta.
Trong suốt tiến trình cách mạng của đất nước, nhất là từ khi chính quyền thuộc về nhân dân, giáo dục là lĩnh vực được Đảng và Nhà nước dành sự quan tâm ưu tiên hàng đầu. Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001, đã khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Trong điều kiện đổi mới, yêu cầu của giáo dục, đào tạo ngày càng đòi hỏi phải có những quy định cụ thể bằng pháp luật để kịp thời điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh trong quá trình giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Chính vì vậy, Luật giáo dục năm 1998 - văn bản luật đầu tiên của nước ta về giáo dục, đã được ban hành.
Mục tiêu của giáo dục, theo Luật giáo dục năm 1998 là nhằm đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và đạo đức công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc ban hành Luật giáo dục năm 1998 là nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với giáo dục, phát huy vai trò của xã hội, mọi tổ chức, gia đình và công dân nâng cao trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, bên cạnh đó còn nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về tổ chức, hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực giáo dục.
Tương ứng với các mục tiêu đó, đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là các quan hệ phát sinh giữa các cơ sở giáo dục, nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân, tổ chức, cá nhân tham gia vào sự nghiệp giáo dục và các vấn đề khác có liên quan.
Về cơ cấu, Luật gồm có 9 chương với 110 điều với những nội dung cơ bản như sau: những quy định chung: xác định mục tiêu của giáo dục, tính chất, nguyên lý giáo dục, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục, ngôn ngữ dùng trong nhà trường; xác định phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển xã hội; quy định về hệ thống giáo dục quốc dân: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phương thức giáo dục không chính quy; quy định về nhà trường và các cơ sở giáo dục khác: tổ chức, hoạt động của nhà trường, nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, các loại trường chuyên biệt, tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục khác; quy định về nhà giáo; quy định về người học; quy định về nhà trường, gia đình và xã hội; quy định về quản lý nhà nước về giáo dục; quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm; quy định về điều khoản thi hành;
Luật giáo dục năm 1998 là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các văn bản pháp luật khác cũng như trong việc điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam.
Tuy nhiên, để đáp ứng kịp thời những yêu cầu đặt ra và nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của sự nghiệp giáo dục, Luật giáo dục năm 2005 được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 7 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14.6.2005 và thay thế Luật giáo dục năm 1998. Luật này có 9 chương, 120 điều, nhiều hơn 10 điều so với Luật giáo dục năm 1998.
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.2006.
LUẬT GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ NĂM 2001
Đạo luật quy định quy tắc giao thông đường bộ; các điều kiện bảo đảm an toàn giao thông đường bộ của kết cấu hạ tầng, phương tiện và người tham gia giao thông đường bộ, hoạt động vận tải đường bộ.
Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, đề cao ý thức trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm giao thông đường bộ thông suốt, trật tự, an toàn, thuận lợi, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, ngày 29.6.2001, Quốc hội Khóa X đã thông qua Luật giao thông đường bộ (Luật số 26/2001/QH10) và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.2002. Đây là văn bản luật về giao thông đường bộ đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta. Luật gồm 77 điều được chia thành 9 chương; Chương I - Những quy định chung (Điều 1 đến Điều 8); Chương II - Quy tắc giao thông đường bộ (Điều 9 đến Điều 36); Chương III - Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (Điều 37 đến Điều 47); Chương IV - Phương tiện tham gia giao thông đường bộ (Điều 48 đến Điều 52); Chương V - Người Điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ (Điều 53 đến Điều 58); Chương VI - Vận tải đường bộ (Điều 59 đến Điều 67); Chương VII - Quản lý nhà nước về giao thông đường bộ (Điều 68 đến Điều 73); Chương VIII - Khen thưởng, xử lý vi phạm (Điều 74 đến Điều 75); Chương IX - Điều khoản thi hành (Điều 76 đến Điều 77).
Theo quy định của Luật, khi tham gia giao thông, người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ.
Luật quy định rõ bảo đảm an toàn giao thông đường bộ là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân và của toàn xã hội, chứ không chỉ là trách nhiệm riêng của ngành giao thông hoặc lực lượng cảnh sát giao thông. Người tham gia giao thông phải nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông, giữ gìn an toàn cho mình và cho người khác. Chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc bảo đảm các điều kiện an toàn của phương tiện tham gia giao thông. Luật cũng quy định rõ việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ phải thực hiện đồng bộ về kỹ thuật và an toàn của kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, phương tiện giao thông đường bộ, ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông và các lĩnh vực khác liên quan đến an toàn giao thông đường bộ. Mọi hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật. Người nào vi phạm pháp luật giao thông đường bộ mà gây tai nạn thì phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình; nếu gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Luật cũng quy định rõ chính sách phát triển giao thông đường bộ, theo đó, Nhà nước ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế trọng điểm; ưu tiên phát triển vận tải hành khách công cộng, hạn chế sử dụng phương tiện giao thông cá nhân ở các thành phố lớn. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào lĩnh vực giao thông đường bộ.
Luật nghiêm cấm các hành vi xâm hại trật tự an toàn giao thông đường bộ như: phá hoại công trình đường bộ; đào, khoan, xẻ đường trái phép; đặt, để các chướng ngại vật trái phép trên đường; mở đường trái phép; lấn chiếm hành lang an toàn đường bộ; tháo dỡ, di chuyển trái phép hoặc làm sai lệch công trình báo hiệu đường bộ; sử dụng lòng đường, hè phố trái phép; đưa xe cơ giới không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật vào hoạt động trên đường bộ; thay đổi tổng thành, linh kiện, phụ kiện xe cơ giới để tạm thời đạt tiêu chuẩn kỹ thuật của xe khi đi kiểm định; đua xe, tổ chức đua xe trái phép; người lái xe sử dụng chất ma túy; người lái xe đang điều khiển xe trên đường mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc 40 miligam/1 lít khí thở hoặc có các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng; người điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định; điều khiển xe cơ giới chạy quá tốc độ quy định; bấm còi và rú ga liên tục; bấm còi trong thời gian từ 22 giờ đến 5 giờ, bấm còi hơi, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị và khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ; vận chuyển trái phép hàng nguy hiểm hoặc không thực hiện đầy đủ các quy định về vận chuyển hàng nguy hiểm; chuyển tải hoặc các thủ đoạn khác để trốn tránh phát hiện xe chở quá tải, quá khổ; người gây tai nạn rồi bỏ trốn để trốn tránh trách nhiệm; người có điều kiện mà cố ý không cứu giúp người bị tai nạn giao thông; lợi dụng việc xảy ra tai nạn giao thông để hành hung, đe dọa, xúi giục, gây sức ép, làm mất trật tự, cản trở việc xử lý; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để vi phạm Luật giao thông đường bộ.
LUẬT HẢI QUAN NĂM 2001
Đạo luật quy định có hệ thống về chính sách hải quan, tổ chức và hoạt động của ngành hải quan, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực hải quan được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29.6.2001, có hiệu lực từ ngày 01.01.2002.
Để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội, ngày 20.02.1990, Pháp lệnh hải quan đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01.5.1990. Pháp lệnh này là cơ sở pháp lý điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực hải quan về quản lý nhà nước đối với hàng hóa, hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam, bưu kiện, bưu phẩm, các đồ vật và tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, mượn đường Việt Nam.
Qua hơn 10 năm thực hiện, Pháp lệnh hải quan cần được sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới và nâng thành một đạo luật đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế. Luật hải quan năm 2001 được ban hành nhằm mục tiêu góp phần bảo đảm thực hiện chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ; hợp tác và giao lưu quốc tế; bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của ngành hải quan.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là các quan hệ xã hội xuất hiện trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan đối với hàng hóa được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, các phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; về tổ chức và hoạt động của ngành hải quan.
Về bố cục, Luật có 8 chương, 82 điều với những nội dung cơ bản như sau; những quy định chung về các chính sách hải quan, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; quy định về nhiệm vụ, tổ chức của hải quan: nguyên tắc tổ chức và hoạt động hệ thống tổ chức, công chức ngành hải quan; quy định về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan và các chế độ ưu đãi, miễn trừ...; quy định về trách nhiệm của hải quan trong việc phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; quy định về tổ chức thu thuế và các khoản thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu: quy định về quản lý nhà nước về hải quan; quy định về khen thưởng và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực hải quan.
Đây là đạo luật đầu tiên quy định có hệ thống về cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động của ngành hải quan cũng như các hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực hải quan. Đạo luật này là cơ sở pháp lý để xây dựng các văn bản pháp luật khác theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
LUẬT HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG VIỆT NAMNĂM 1991
Đạo luật chứa đựng hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh những quan hệ pháp lý liên quan tới hoạt động hàng không dân dụng, nhằm bảo đảm an toàn hàng không, khai thác có hiệu quả các tiềm năng về hàng không, góp phần thúc đẩy và phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa VIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 26.12.1991, có hiệu lực kể từ ngày 01.6.1992.
Hoạt động hàng không dân dụng nói tại Luật này bao gồm những hoạt động nhằm sử dụng tàu bay vào mục đích vận chuyển hàng hóa, bưu kiện, bưu phẩm và các hoạt động kinh tế khác, phục vụ nghiên cứu khoa học, hoạt động văn hóa, thể thao, y tế, tìm kiếm, cứu nguy và các hoạt động dân dụng khác. Luật này không áp dụng đối với tàu bay của lực lượng vũ trang, hải quan và các tàu bay khác chuyên dùng cho mục đích công vụ nhà nước.
Phạm vi điều chỉnh của Luật hàng không dân dụng bao gồm mọi tổ chức, cá nhân trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế được kinh doanh hàng không; tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hợp tác, đầu tư trong lĩnh vực hàng không dân dụng tại Việt Nam.
Đối tượng điều chỉnh là hoạt động hàng không dân dụng trên lãnh thổ Việt Nam; hoạt động hàng không dân dụng ngoài lãnh thổ Việt Nam; hoạt động hàng không dân dụng nước ngoài tại Việt Nam.
Sau khi Hiến pháp năm 1992 ra đời, nhằm tăng cường sự quản lý nhà nước về hàng không dân dụng, bảo đảm cho các hoạt động trong lĩnh vực hàng không dân dụng được tiến hành đúng pháp luật, có kế hoạch, trật tự, phù hợp với thời kỳ đổi mới, đặc biệt là phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế về hoạt động hàng không, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ họp thứ 7 ngày 20.4.1995 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hàng không dân dụng Việt Nam.
Về bố cục, Luật hàng không dân dụng Việt Nam gồm lời nói đầu, 10 chương với 112 điều, gồm những nội dung cơ bản sau đây: những quy định chung; tàu bay; cảng hàng không, sân bay; tổ bay; hoạt động bay; vận chuyển hàng không; trách nhiệm bồi thường; thanh tra an toàn hàng không; xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp; điều khoản cuối cùng.
Kế thừa Luật hàng không dân dụng năm 1991, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hàng không dân dụng Việt Nam đã có những điểm mới cơ bản so với Luật hàng không dân dụng Việt Nam năm 1991, đó là xác định rõ vai trò của Nhà nước trong việc quản lý hoạt động hàng không dân dụng; bổ sung các quy định về Điều tra tai nạn tàu bay, về doanh nghiệp vận chuyển hàng không phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước; về giá cước, về bồi thường thiệt hại, về bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm an ninh hàng không của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành hàng không.
LUẬT HÀNH CHÍNH
Ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước, tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước.
Luật hành chính quy định việc tổ chức các cơ quan nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành; quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan đó và của cán bộ, nhân viên cũng như của các cơ quan, tổ chức nhà nước, xã hội và công dân trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Luật hành chính bao gồm không chỉ những luật lệ về tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, các công sở, về các quy tắc trật tự, an ninh, an toàn xã hội, mà còn cả những chế định ngày càng phát triển về quản lý kinh tế - văn hóa, xã hội, về những quan hệ giữa Nhà nước và các tổ chức, đơn vị kinh tế, tập thể và cá nhân.
LUẬT HIẾN PHÁP
Ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật của Nhà nước; điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất liên quan đến tổ chức quyền lực nhà nước, gắn liền với việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, ngoại giao của đất nước, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Ở Việt Nam, ngành luật hiến pháp được hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (được đánh dấu bằng sắc lệnh số 14 ngày 08.9.1945 do Hồ Chủ tịch ban hành và tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến). Nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của ngành luật hiến pháp Việt Nam là Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước, ngoài ra còn có các nguồn khác như Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và một số văn bản dưới luật có chứa đựng các quy phạm của luật hiến pháp do các cơ quan như ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Hội đồng nhân dân các cấp ban hành.
Một chuyên ngành khoa học pháp lý, đối tượng nghiên cứu của nó chính là ngành luật hiến pháp. Khoa học luật hiến pháp Việt Nam nghiên cứu các quy phạm, các chế định của luật hiến pháp Việt Nam, các quan hệ pháp luật luật hiến pháp Việt Nam, các phương pháp điều chỉnh của ngành luật hiến pháp và những quan điểm chính trị, pháp lý liên quan đến ngành luật hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoa học luật hiến pháp Việt Nam ra đời cùng với sự ra đời của ngành luật hiến pháp Việt Nam.
Một môn học trong chương trình đào tạo cử nhân luật, thạc sĩ luật và tiến sĩ luật. Đối tượng nghiên cứu của môn học này chính là ngành luật hiến pháp và khoa học luật hiến pháp Việt Nam. Môn học Luật hiến pháp Việt Nam được giảng dạy tại nhiều trường chuyên ngành luật và không chuyên như trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, khoa Nhà nước - Pháp luật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường Đảng...
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Hiến pháp đang có hiệu lực là Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013.
LUẬT HÌNH SỰ
Ngành luật (hệ thống các quy phạm pháp luật) xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và quy định các hình phạt có thể áp dụng đối với người phạm tội.
Là ngành luật độc lập, luật hình sự có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng.
Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ xã hội giữa Nhà nước và người phạm tội phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra. Trong quan hệ xã hội này, hai chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau. Nhà nước có quyền buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Người phạm tội có nghĩa vụ chấp hành các biện pháp cưỡng chế hình sự mà Nhà nước đã áp dụng đối với họ. Mặt khác, người phạm tội cũng có quyền yêu cầu Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế đúng luật, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đó cũng chính là nghĩa vụ của Nhà nước.
Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự là phương pháp quyền uy nhà nước.
Là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật hình sự có nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ Nhà nước, xã hội cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; giáo dục, cải tạo người phạm tội cũng như giáo dục mọi công dân ý thức tuân theo pháp luật.
Các nguyên tắc chung mà ngành luật hình sự tuân thủ là nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc có lỗi, nguyên tắc phân hóa và cá thể hóa trách nhiệm hình sự...
Hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự có thể chia thành hai phần. Những quy phạm đề cập những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt tạo thành phần chung của luật hình sự. Những quy phạm trong đó quy định các tội phạm cụ thể cũng như các khung hình phạt áp dụng cho những tội cụ thể đó tạo thành phần riêng (phần các tội phạm) của luật hình sự.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Bộ luật hình sự đang có hiệu lực là Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam; điều chỉnh các quan hệ phát sinh do các sự kiện kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi, sinh đẻ, giám hộ, cấp dưỡng; điều chỉnh các quan hệ nhân thân và các quan hệ tài sản phát sinh giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em với nhau và giữa các thành viên gia đình; quy định việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam có nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình đang có hiệu lực là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2014.
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
Đạo luật chứa đựng hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ pháp lý liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Luật hôn nhân và gia đình được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09.6.2000 và có hiệu lực kể từ ngày 01.01.2001. Luật này thay thế Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài năm 1993.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành nhằm đề cao hơn nữa vai trò của gia đình trong đời sống xã hội: giữ gìn, phát huy truyền thống và những giá trị, những phong tục, tập quán tốt đẹp, lành mạnh, thủy chung trong hôn nhân và gia đình của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình; đề cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.
Nhiệm vụ của Luật hôn nhân và gia đình là nhằm góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Phạm vi điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình là chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 gồm 12 Chương, 110 điều với những nội dung cơ bản sau: những quy định chung; kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; quan hệ giữa cha, mẹ với con, giữa ông bà nội, ông bà ngoại với cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình; vấn đề cấp dưỡng; việc xác định cha, mẹ, con; chế độ con nuôi; giám hộ giữa các thành viên trong gia đình; vấn đề ly hôn; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; xử lý vi phạm; điều khoản thi hành.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội như hiện nay, những biến động xã hội đã tác động đến cơ cấu, chức năng, vai trò của gia đình. Ở Việt Nam, căn cứ vào tình hình chung của các gia đình, quan hệ hôn nhân vẫn là quan hệ nền tảng, trên cơ sở đó thiết kế đời sống gia đình. Hôn nhân là quan hệ giữa các đôi nam nữ (quan hệ tính giao) được xã hội công nhận dưới nhiều hình thức. Sự công nhận của chính quyền về mặt pháp lý; của gia đình, họ hàng, bạn bè dưới hình thức nghi lễ theo phong tục, tập quán, tôn giáo của địa phương là rất quan trọng.
Điều 64 Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi rõ: “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng". Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là sự kế thừa và phát triển các chế định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và trước đó, của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, nhằm thiết lập, bảo vệ và hướng tới sự văn minh, tiến bộ, bảo đảm hạnh phúc trong hôn nhân và gia đình; là cơ sở pháp lý vững chắc để loại bỏ những hiện tượng vi phạm trong quan hệ hôn nhân như tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lấy vợ lẽ, tình trạng đánh vợ, hành hạ con cái, không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con cái, bố mẹ già...
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có tốt thì xã hội mới tốt. Ngược lại, xã hội tốt là một bảo đảm cho gia đình tốt. Chính vì hiểu rõ và đánh giá đúng vai trò, trách nhiệm của gia đình, Nhà nước ta đã hết sức chú trọng động viên và giúp đỡ việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc; xây dựng các quan hệ hòa thuận, tốt đẹp giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái,….Nhiều quy định của Luật hôn nhân và gia đình và các đạo luật khác như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật lao động... đã có tác dụng tạo điều kiện cho các gia đình làm ăn sinh sống dễ dàng hơn, cũng như quy định rõ trách nhiệm, quyền, lợi ích của vợ chồng, cha mẹ, con cái; những điều ngăn cấm và quy định về xử phạt các hành vi vi phạm.
Xác định vị trí của Luật hôn nhân và gia đình trong đời sống của xã hội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1959, phát biểu trước Quốc hội nhân dịp Quốc hội thông qua Luật hôn nhân và gia đình đầu tiên của xã hội ta, đã nhấn mạnh; Luật hôn nhân và gia đình có quan hệ mật thiết đến mọi người dân trong nước, đến cả nòi giống Việt Nam ta. Đạo luật ấy làm cho gái trai thật sự bình quyền, gia đình thật sự hạnh phúc. Toàn thể đồng bào ta đều nhiệt liệt hoan nghênh đạo luật chí tình chí lý ấy.
LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 1996
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật, quy định và điều chỉnh về điều kiện thành lập, tổ chức và hoạt động của hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Luật hợp tác xã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20.3.1996, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.1997.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật hợp tác xã là các quan hệ phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức và hoạt động của các hợp tác xã thuộc mọi ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Hợp tác xã được hiểu là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo các quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một nét đặc trưng tiêu biểu của pháp luật về hợp tác xã là trên cơ sở các quy định của Luật, Chính phủ được giao ban hành các Điều lệ mẫu hướng dẫn các hợp tác xã hoạt động phù hợp với tính chất ngành, nghề, lĩnh vực hoạt động của từng hợp tác xã.
Từ khi Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế, các hợp tác xã đã có sự biến đổi cơ bản, từ số lượng 100.000 hợp tác xã lúc cao trào (1986- 1988) đã giảm mạnh chỉ còn 25.000 (1995-1996). Với cơ chế kinh tế mới, hình thức và tính chất của hợp tác xã đã có nhiều thay đổi. Khi muốn chuyển đổi, các hợp tác xã gặp nhiều lúng túng, vì cơ sở pháp lý không đủ để mở rộng các hình thức hợp tác đa dạng. Trước yêu cầu này, việc ban hành Luật hợp tác xã, đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời và khẳng định tư cách pháp lý của những mô hình kinh tế hợp tác có đủ điều kiện để trở thành hợp tác xã, đồng thời, tạo điều kiện để Nhà nước quản lý hợp tác xã theo pháp luật. Luật hợp tác xã xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân hợp tác xã, khuyến khích phát triển hợp tác xã trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật hợp tác xã cũng khẳng định rõ đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta coi hợp tác xã là một thành phần kinh tế quan trọng để cùng với kinh tế nhà nước, tạo ra động lực mới thu hút đông đảo quần chúng lao động tích cực tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước.
Luật hợp tác xã năm 1996 gồm có 10 chương với 56 điều. Chương I - Những quy định chung, gồm 11 Điều, quy định về hợp tác xã, phạm vi điều chỉnh, chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã, quyền và nghĩa vụ, tên và biểu tượng của hợp tác xã. Chương II - Thành lập và đăng ký kinh doanh, gồm 10 điều, quy định về các điều kiện thành lập và thủ tục đăng ký kinh doanh hợp tác xã. Chương III - Xã viên, gồm 4 Điều, quy định về điều kiện để trở thành xã viên hợp tác xã, quyền và nghĩa vụ của xã viên, các căn cứ để chấm dứt tư cách xã viên. Chương IV - Tổ chức và quản lý hợp tác xã, gồm 10 điều, quy định về Đại hội xã viên, Ban quản trị, Ban kiểm soát, Chủ nhiệm hợp tác xã. Chương V - Tài sản và tài chính của hợp tác xã, gồm 8 điều, quy định về vốn góp của xã viên, chế độ huy động vốn, về các quỹ, tài sản của hợp tác xã, cách xử lý vốn, tài sản khi hợp tác xã giải thể, việc phân phối lãi và xử lý các khoản lỗ của hợp tác xã. Chương VI, gồm 4 điều, quy định về hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản hợp tác xã. Chương VII, gồm 2 điều, quy định về liên hiệp hợp tác xã và tổ chức liên minh hợp tác xã. Chương VIII - Quản lý nhà nước đối với hợp tác xã, gồm 3 điều, quy định về nội dung quản lý nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp đối với hợp tác xã, quy định mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và vai trò của các tổ chức này đối với hợp tác xã. Chương IX - Khen thưởng, xử lý vi phạm, gồm 2 điều. Chương X - Điều khoản thi hành, gồm 2 điều, quy định về hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành Luật hợp tác xã. So sánh Luật hợp tác xã năm 1996 của Việt Nam với luật hợp tác xã một số nước trên thế giới và khu vực cho thấy, các quy định của Luật hợp tác xã năm 1996 đã gần hơn về bản chất hình thức kinh tế tập thể đối với quy định của pháp luật các nước trên thế giới, đặc biệt là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã. Hợp tác xã được ghi nhận là một loại hình doanh nghiệp hoạt động bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác trước pháp luật.
Sau 5 năm thi hành, Luật hợp tác xã năm 1996 đã được thay thế bằng Luật hợp tác xã mới được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003.
LUẬT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO NĂM 1998
Văn bản pháp luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Luật khiếu nại, tố cáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 02.12.1998 và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 11.12.1998.
Đối tượng điều chỉnh của Luật khiếu nại, tố cáo là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, gồm những quan hệ xã hội phát sinh do việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại: quan hệ giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại; quan hệ giữa người khiếu nại và người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại; quan hệ giữa người giải quyết khiếu nại với người bị khiếu nại. Những quan hệ xã hội phát sinh do tố cáo và hoạt động giải quyết tố cáo, bao gồm: quan hệ giữa người tố cáo và người bị tố cáo; quan hệ giữa người tố cáo và người giải quyết tố cáo; quan hệ giữa người giải quyết tố cáo với người bị tố cáo.
Về phạm vi điều chỉnh, xuất phát từ thực tế hiện tượng khiếu nại, tố cáo xảy ra thường xuyên ở tất cả các địa phương và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng khiếu nại, tố cáo là những hiện tượng khác nhau, nên có thể phân biệt giữa phạm vi khiếu nại và phạm vi tố cáo, cụ thể, về phạm vi khiếu nại là: quyết định hành chính; hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; về phạm vi tố cáo là những hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo không bị giới hạn bởi thời hiệu, cũng không bị giới hạn là vi phạm quy phạm pháp luật của ngành luật nào trong hệ thống pháp luật nước ta cũng như bất kỳ chủ thể nào.
Vấn đề khiếu nại, tố cáo lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991, đã tạo ra cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đã được Hiến pháp quy định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Việc ban hành Hiến pháp năm 1992 và cùng với Hiến pháp là nhiều luật chuyên ngành đều có quy định về thẩm quyền, trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo theo từng ngành, càng làm cho quy định của pháp luật không còn phù hợp. Do đó, Luật khiếu nại, tố cáo mới (1998) đã được Quốc hội ban hành trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật và nhiều quy định về khiếu nại, tố cáo của các luật chuyên ngành, khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991, tạo ra sự thống nhất trong các quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời đáp ứng được những yêu cầu của tình hình mới về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
Về cơ cấu và nội dung cơ bản, Luật có 9 chương với 103 điều. Mỗi chương, mục của Luật khiếu nại, tố cáo có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương, mục đó. Chương I - Những quy định chung, quy định chủ thể có quyền khiếu nại, tố cáo; nêu khái niệm về khiếu nại, tố cáo; quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chương II - Khiếu nại, giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính được chia thành 3 mục. Quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người khiếu nại và người giải quyết khiếu nại quyết định hành chính và hành vi hành chính; thẩm quyền giải quyết khiếu nại; khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết khiếu nại. Chương III - Khiếu nại. giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức, quy định thời hiệu khiếu nại; trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại. Chương IV - Tố cáo, giải quyết tố cáo, có 3 mục, quy định về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo; trách nhiệm giải quyết các loại vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và thủ tục giải quyết tố cáo. Chương V - Việc tổ chức tiếp công dân, quy định trách nhiệm của Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, Thanh tra nhà nước các cấp, người trực tiếp tiếp công dân khi công dân đến khiếu nại, tố cáo, đưa đơn khiếu nại, tố cáo. Chương VI - Quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, quy định nội dung quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp và Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong việc quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình. Chương VII - Giám sát công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, gồm 2 mục, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp trong việc thực hiện giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm của Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân trong việc thông báo đến ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm giải quyết của mình. Chương VIII - Khen thưởng và xử lý vi phạm, quy định những trường hợp được khen thưởng và những trường hợp vi phạm bị xử lý theo quy định của pháp luật. Chương IX - Điều khoản thi hành.
Sau 6 năm thực hiện, Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội Khóa XI, ngày 15.6.2004, những điều khoản được sửa đổi, bổ sung là những quy định có liên quan đến thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ giải quyết khiếu nại của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, của Tổng thanh tra; bãi bỏ Điều 12 quy định về quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo; thay cụm từ “Tổng thanh tra nhà nước’’ tại Điều 81 Luật khiếu nại, tố cáo bằng cụm từ " Thanh tra Chính phủ".
LUẬT KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂM 2001
Đạo luật chứa đựng hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ pháp lý liên quan tới hoạt động khoa học và công nghệ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09.6.2000 và có hiệu lực kể từ ngày 01.01.2001.
Mục đích của việc ban hành Luật khoa học và công nghệ là để phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học và công nghệ; xây dựng nền khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý; sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng con người mới Việt Nam; góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Phạm vi điều chỉnh của Luật khoa học và công nghệ là tổ chức khoa học và công nghệ; tổ chức thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ.
Về bố cục, Luật khoa học và công nghệ năm 2000 gồm lời nói đầu, 8 chương với 59 điều, gồm những nội dung cơ bản sau: những quy định chung; tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; hoạt động khoa học và công nghệ; các biện pháp bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ; hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ; quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ; khen thưởng và xử lý vi phạm; điều khoản thi hành.
Công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đòi hỏi toàn xã hội làm chủ sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ. Khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng một nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước thì cũng có nghĩa là khoa học và công nghệ phải chuyển biến tương ứng, phải thích nghi với môi trường kinh tế - xã hội đã thay đổi. Trên thực tế, quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường trong lĩnh vực khoa học và công nghệ đã diễn ra từng bước trong suốt thập kỷ 80 và đầu những năm 90 thế kỷ XX. Song căn cứ pháp lý của nó chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp quy hầu hết dưới luật, như: Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989, Pháp lệnh về chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam năm 1988, Pháp lệnh đo lường năm 1990, Pháp lệnh chất lượng hàng hóa năm 1991 và các nghị định của Chính phủ. Theo phương châm vừa làm vừa rút kinh nghiệm, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong giai đoạn này đã hình thành nhưng chưa đồng bộ và chưa cụ thể để chỉ đạo hành động trong thực tiễn. Chính vì vậy, sự ra đời của Luật khoa học và công nghệ năm 2000 cụ thể hóa tinh thần về khoa học và công nghệ của Hiến pháp năm 1992 là một đòi hỏi khách quan.
Cơ quan chủ quản: Công ty cổ phần Tư Vấn Đầu Tư và Ứng Dụng Công Nghệ 4.0.
Chịu trách nhiệm chính: Bà Nguyễn Thị Ngọc Hà.
Giấy chứng nhận ĐKDN số: 0108234370, do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 18/04/2018.
Địa chỉ: Dương Hà, Gia Lâm, Hà Nội - VPGD: C2 Vincom, 119 Trần Duy Hưng, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
Điện thoại: 024.6294.9155 - Hotline: 0986.426.961 - Email: info@hethongphapluat.com